Những cơn mưa đầu mùa năm ấy đến sớm hơn mọi năm. Trận mưa đêm qua như trút cả u uất, cả nỗi buồn của đất trời xuống mái ngói đã rêu phong của căn nhà cũ. Tôi ngồi trong gian bếp ẩm ướt, ngắm những giọt nước lăn dài theo vết nứt của vách tường. Bát cơm cúng mẹ vẫn còn nghi ngút khói, chưa ai động đũa. Ngoài sân, gió rít qua hàng cau, tiếng cồng chiêng xa xa vọng lại từ xóm bên như vọng hồn người đã khuất.
Anh tôi và chị dâu đứng bên hiên, nói chuyện nhỏ to. Câu chuyện của họ chẳng cần nghe cũng hiểu: là chuyện ngôi nhà, chuyện bán hay giữ, chuyện chia phần thừa kế. Tôi im lặng. Vài tháng trước, mẹ mất. Giờ là lễ cúng 49 ngày. Tưởng đâu sau tang gia, gia đình có thể lắng lại một chút. Nhưng đâu ngờ, giông tố thật sự mới bắt đầu nổi lên.
Tôi là con út trong gia đình có hai anh em trai. Anh tôi, Hùng, hơn tôi tám tuổi, là niềm hy vọng của cha mẹ. Từ nhỏ, anh đã học giỏi, điềm đạm, hiểu chuyện. Năm anh đậu đại học ở thành phố, cả nhà mổ lợn ăn mừng. Mẹ tôi không tiếc gì, bán luôn hai sào ruộng tốt để gom đủ tiền cho anh lên thành phố học hành. “Phải học giỏi, sau này đổi đời nghe con,” mẹ nói như giao cả giấc mơ đời mình vào đôi mắt anh tôi.
Những năm tháng đó, tôi còn nhỏ. Tôi nhớ những bữa cơm độn khoai, nhớ cha tôi lưng còng cày sâu cuốc bẫm, mẹ thì thức khuya dậy sớm tráng bánh đem bán ngoài chợ huyện. Tất cả vì anh tôi. Mà tôi cũng không trách, vì lúc đó tôi nghĩ anh là ánh sáng của cả nhà.
Anh học xong, ở lại thành phố làm việc. Một thời gian sau thì cưới vợ. Vợ anh là con gái giám đốc công ty nơi anh làm – giàu có, sang trọng, nói năng nhẹ nhàng nhưng đôi mắt lúc nào cũng như soi mói người khác. Họ sống trong một căn hộ cao cấp, có xe riêng, thỉnh thoảng mới về quê. Mỗi lần về, anh chị đi xe hơi, chỉ ghé chào cha mẹ rồi về lại trong ngày.
Tôi học xong lớp 12 thì mẹ bắt nghỉ. Khi ấy, cha tôi đổ bệnh nặng, tiền thuốc men, chăm sóc quá nhiều. Mẹ nói: “Thôi con à, nhà mình đâu còn sức nữa. Mày học giỏi nhưng không bằng phúc phần như anh mày. Đi làm thợ xây, kiếm tiền phụ mẹ.”
Tôi gật đầu. Không oán trách. Nhưng trong lòng có gì đó tê tái.
Từ đó, tôi đi làm đủ nghề – thợ hồ, phụ hồ, bốc vác… Gương mặt rám nắng, đôi bàn tay chai sạn theo năm tháng. Trong khi đó, cuộc sống của anh tôi ngày càng khấm khá. Mỗi dịp lễ Tết, về quê, chị dâu thường đem theo ít bánh kẹo, vài phong bì “gửi cho ông bà già xài”. Còn tôi, vẫn cặm cụi lo toan từng bữa ăn, từng viên gạch cho căn nhà cũ không sập xuống.
Đến khi cha tôi mất, ngôi nhà cũ chỉ còn mình mẹ và tôi. Anh tôi ít về hơn. Khi mẹ đau yếu, cũng tôi là người bồng bế bà vào bệnh viện, thay bỉm, đút cháo. Anh tôi bận. Chị dâu thì không muốn chồng phải “dính bụi quê”. Lúc mẹ hấp hối, tôi gọi anh thì chị dâu nhấc máy: “Anh bận công tác, chắc không kịp đâu em ạ.”
Mẹ mất vào một sáng tháng Chạp. Trời âm u như lòng tôi lúc ấy. Tôi lo đám tang, chạy vạy vay mượn khắp xóm. Anh về, đưa tiền nhưng chẳng hỏi han gì nhiều. Đứng cúi đầu trước linh cữu mẹ mà tôi thấy anh như một người xa lạ.
Lễ 49 ngày mẹ vừa xong thì chị dâu lập tức đăng tin bán nhà. “Đất quê đang sốt, để lâu phí. Mẹ mất rồi, giữ làm gì căn nhà cũ này.”
Tôi nghẹn họng, hỏi: “Còn tôi? Tôi ở đâu?”
Chị cười, nửa miệng: “Lớn rồi thì tự lập đi. Chúng tôi cho cậu phần nhỏ trong tiền bán đất là được.”
Anh tôi khi ấy im lặng. Rồi đột ngột bảo: “Thôi, anh tặng luôn căn nhà cho chú. Gọi là để chú làm vốn làm ăn.”
Tôi nhìn anh, suýt rơi nước mắt. Nhưng chưa kịp vui thì chị dâu gắt lên: “Không được! Đó là tài sản chung. Em không đồng ý. Căn nhà này bán đi, chia tiền, ai muốn làm gì thì làm.”
Tôi không nói thêm gì. Có những nỗi đau không thể diễn tả thành lời.
Và rồi, đúng ngày đó – sau bữa cúng 49 ngày mẹ, khi tôi còn đang dọn bát cơm cúng, thì điện thoại anh reo. Tôi không rõ ai gọi. Chỉ thấy mặt anh tái xanh, giọng run run:
“Cái gì? Cháy nhà à?… Không… không thể nào…”
Chị dâu thì gào lên. Họ cuống cuồng lên xe trở lại thành phố. Tôi chỉ biết đứng lặng nhìn theo. Cơn mưa đầu mùa bắt đầu rơi – ào ạt như nước mắt không kìm được.
mang, vừa tuyệt vọng.
“Cháy sạch rồi chú ạ. Căn hộ… đồ đạc… mọi thứ thành tro.”
Tôi im lặng. Chẳng biết phải nói gì. Tôi hình dung cảnh căn hộ cao tầng rực lửa trong đêm, tiếng còi xe cứu hỏa, những lời hét hãi hùng. Mà không hiểu sao, trong lòng tôi chẳng thấy hả hê, chỉ thấy một nỗi buốt lạnh len vào tim.
Anh tôi về lại quê hôm sau. Không có chị dâu đi cùng. Anh gầy đi thấy rõ, mắt trũng sâu, tóc bắt đầu điểm bạc. Khác hẳn người đàn ông thành đạt, bóng bẩy thường ngày. Tôi đón anh trong gian bếp cũ – nơi giờ đây chỉ còn tôi ở một mình.
Chúng tôi ngồi đối diện nhau, như hai cái bóng giữa ánh sáng lờ mờ của bóng đèn tuýp chập chờn.
“Chị ấy… đòi ly hôn.” – Anh nói, giọng khàn đặc.
“Cái nhà cháy, bảo hiểm không đền. Chị ấy bảo anh làm mất tất cả. Rồi chị dọn đi.”
Tôi không hỏi thêm gì. Chuyện nhà người ta, nhất là chuyện vợ chồng, đôi khi càng ít hỏi càng bớt đau.
Một lúc sau, anh mới ngẩng lên, nhìn thẳng vào tôi:
“Anh sai rồi. Sai từ rất lâu… nhưng đến lúc mất hết, mới nhìn thấy rõ.”
Tôi quay đi, chỉ nói một câu:
“Còn nhà này? Giờ anh tính sao?”
Anh cúi đầu, im lặng.
Hôm đó, tôi đem xuống gầm giường cũ của mẹ mấy thùng quần áo cũ để đốt cho nhẹ nhà cửa. Khi dỡ xuống, tay tôi vô tình chạm vào một chiếc hộp gỗ nhỏ, phủ đầy bụi. Mở ra, bên trong là xấp giấy cũ kỹ, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và một phong bì dán kín có ghi nét chữ quen thuộc của mẹ: “Chỉ mở khi mẹ không còn.”
Tôi run tay, mở phong bì. Bên trong là một tờ giấy đã úa màu: bản di chúc viết tay, có chữ ký của mẹ và xác nhận của trưởng thôn.
“Tôi, Nguyễn Thị Lan – sinh năm 1955 – để lại ngôi nhà này và phần đất kèm theo cho người con út – Nguyễn Văn Tín – là người chăm sóc tôi đến cuối đời, để làm nơi nương thân. Con cả – Nguyễn Văn Hùng – đã được ưu tiên học hành, lập nghiệp riêng. Đây là sự phân chia theo tình, không theo tài sản. Mong các con hiểu cho tấm lòng người mẹ…”
Tôi lặng người. Mẹ đã biết trước mọi chuyện. Bà không nói, không trách, không răn dạy. Bà chỉ lặng lẽ viết một tờ giấy – như gửi gắm chút công bằng cuối cùng cho người ở lại.
Tôi đưa bản di chúc cho anh.
Anh nhìn chăm chăm hồi lâu, rồi đưa tay che mặt. Tôi nghe tiếng anh khóc – lần đầu tiên sau mấy chục năm làm anh trai cả.
“Mẹ hiểu hết… mà anh thì… mải mê quá…”
Chị dâu có về lại quê – không phải để níu kéo mà để thúc ép chia tài sản. Nhưng khi nghe tin căn hộ bị cháy, bảo hiểm không đền, di chúc để lại cho tôi – chị như hóa đá.
“Giấy viết tay không có giá trị pháp lý!” – chị gào lên trong một buổi họp với trưởng thôn.
Nhưng ông trưởng thôn gật gù:
“Tôi làm chứng. Chính tay tôi xác nhận. Có công chứng xã. Có lý có tình. Ở quê, tình còn quan trọng hơn pháp.”
Chị bỏ đi, không nói thêm lời nào. Về sau, tôi nghe tin chị quay về nhà mẹ đẻ, nộp đơn ly hôn. Anh tôi ở lại quê, xin làm kế toán cho hợp tác xã xã. Không cao sang, không lương lớn – nhưng sống đủ, và lặng lẽ.
Chúng tôi bắt đầu trồng rau sau vườn, chăn gà trong chuồng cũ của cha. Những tối không mưa, anh em ngồi uống chè bên hiên, nhớ chuyện cũ. Anh kể về những năm tháng sống gượng gạo, cố để vừa lòng vợ, để thành đạt theo định nghĩa người khác.
“Chỉ khi mất hết, anh mới thấy… hóa ra cái gọi là ‘thành công’ mà mình từng theo đuổi, không bằng một bát cơm mẹ nấu, không bằng cái nhà đất quê này.”
Tôi chỉ cười.
“Mỗi người phải đi qua giông bão mới biết giá trị của mái hiên cũ.”
Ba năm sau, căn nhà được sửa lại, lợp mái mới, xây thêm một gian bếp nhỏ. Anh tôi vẫn ở đó, còn tôi – tôi cưới vợ, là một cô gái làm nông trong làng. Không xinh đẹp như chị dâu năm xưa, nhưng cô ấy biết gói bánh, biết pha chè, và nhất là – biết chờ tôi sau mỗi ngày làm lụng.
Ngày sinh con đầu lòng, tôi đặt tên con là Lan – theo tên mẹ.
Mỗi lần cúng giỗ, tôi lại thắp ba nén nhang lên bàn thờ, thì thầm:
“Mẹ ơi, căn nhà mình không bị bán. Con vẫn giữ. Giữ được rồi mẹ ạ.”
Trên tường, bức di chúc mẹ viết tay được lồng kính treo ngay ngắn – không chỉ như một bản chia tài sản, mà như một bản di huấn cuối cùng về công bằng, tình nghĩa và lòng người.