“Tôi chăm mẹ vợ như mẹ đẻ của mình. Ngày ngày tôi dậy từ 5h sáng nấu cháo rồi lại chạy vào viện, chẳng nề hà việc gì. Ngay cả lúc bà yếu nhất, tôi vẫn gội đầu, thay quần áo cho bà – điều mà chính con gái bà không làm nổi. Trước lúc mất, bà dúi vào tay tôi tờ 50 nghìn và nói: ‘Không được tiêu nó trong 2 năm 2 tháng.’ Tôi làm đúng như lời. Và điều xảy ra sau đó… tôi không bao giờ có thể quên.”
Mẹ vợ tôi tên là Hường, một người phụ nữ miền Trung nhỏ thó, gầy gò nhưng gan lỳ và thương con vô cùng. Bà từng không ưa tôi – điều đó chẳng phải bí mật. Ngày tôi cưới con gái bà, bà lạnh nhạt rõ ràng, chẳng thèm nhìn tôi đến lần thứ hai. Tôi là dân tỉnh lẻ, tay trắng vào Sài Gòn lập nghiệp, làm nghề sửa điện nước vặt, nhà không cửa, xe không ga. Bà bảo thẳng với vợ tôi:
“Đời con lấy người như thế, khổ là cái chắc.”
Nhưng tôi không trách. Ai làm cha mẹ cũng muốn con gái được sung sướng. Chỉ có điều, tôi thương vợ, nên cố gắng từng chút một, xây đắp bằng cả hai bàn tay. Dù bà không nói, tôi biết bà để ý. Năm đầu tiên, khi tôi chở bà đi khám bệnh bằng chiếc xe số cũ, trời mưa như trút, bà không nói gì. Nhưng về nhà, tôi nghe vợ tôi kể bà nói:
“Nó biết thương người.”
Năm thứ ba, khi bà đổ bệnh, vợ tôi lại đang mang thai con đầu lòng. Bệnh viện báo bà bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Gia đình ai cũng rối. Vợ tôi muốn ở nhà dưỡng thai, còn tôi – không biết sao lúc ấy tôi lại xung phong:
“Để con chăm mẹ.”
Mỗi sáng, tôi dậy từ 5h, nấu nồi cháo trắng nhỏ, bỏ vào hộp giữ nhiệt. Tôi đi bộ từ nhà trọ ra bệnh viện gần 3km. Tôi chăm bà như mẹ đẻ – thay đồ, lau người, nói chuyện. Bà yếu, không nói được nhiều. Có hôm tôi gội đầu cho bà, bà nhìn tôi rất lâu, rồi nói khẽ:
“Thằng con rể này… hơn đứa con gái của bà…”
Tôi cười, chẳng nghĩ gì nhiều. Tôi chỉ thấy bà là mẹ. Không phải mẹ vợ, mà là mẹ – theo đúng nghĩa.
Hai tháng sau, bệnh bà trở nặng. Bà bắt đầu mê sảng. Nhưng sáng hôm ấy, trời mưa nhẹ, tôi vào phòng thì thấy bà tỉnh táo lạ kỳ. Bà bảo tôi ngồi xuống, lấy trong áo ra một tờ 50 nghìn, dúi vào tay tôi, mắt bà ráo hoảnh:
“Con giữ nó, đừng tiêu. Hai năm hai tháng sau, hãy tiêu. Sẽ có cái con cần.”
Tôi định hỏi thì bà đã nhắm mắt. Chiều hôm đó, bà mất.
Gia đình lo ma chay. Tôi giữ tờ 50 nghìn ấy như một kỷ vật. Tôi kể lại lời bà nói, vợ tôi chỉ lắc đầu:
“Mẹ mê sảng rồi. Chắc bà nhớ mấy chuyện ngày xưa.”
Nhưng tôi vẫn làm theo. Tôi bỏ tờ tiền vào một hộp nhỏ, dán kín lại, để trên kệ sách, không bao giờ đụng đến.
Hai năm hai tháng. 812 ngày.
Tôi không ngờ cuộc sống mình lại đảo chiều chỉ trong quãng thời gian đó.
Ban đầu, sau khi mẹ mất, tôi rơi vào chuỗi ngày khó khăn. Vợ tôi sinh con nhưng sức khỏe yếu. Tôi vừa lo việc, vừa chăm con, tiền bạc thiếu hụt. Có lần, tôi móc ví chỉ còn đúng… 20 nghìn. Tôi đã đứng nhìn cái hộp dán kín chứa tờ 50 nghìn đó rất lâu.
Chỉ cần mở nó ra, là đủ để mua gói mì, một ít sữa cho con, hoặc đổ đầy bình xăng đi làm thêm. Nhưng tôi không làm. Cứ như có gì đó mách bảo: “Đừng.”
Tôi tiếp tục đi làm vặt, nhận thêm việc buổi tối. Có ngày chỉ ngủ 3 tiếng. Tôi chấp nhận, vì nghĩ về câu nói của mẹ trước lúc mất.
“Có cái con cần.”

Đến tháng thứ 25 – tức hai năm hai tháng đúng nghĩa – đúng vào hôm giỗ mẹ, tôi dọn lại kệ sách. Tay tôi chạm vào cái hộp. Bụi phủ dày.
Tôi ngồi xuống, mở ra.
Tờ 50 nghìn vẫn y nguyên. Nhưng có điều lạ – phía sau tờ tiền, tôi thấy có dòng chữ nhỏ, viết bằng mực đen đã mờ:
“Nhà số 17/2 – tìm ông Cẩn.”
Tôi sững sờ. Đây là chữ viết của mẹ. Làm sao… tôi chưa từng để ý dòng chữ ấy.
Tôi đem kể lại với vợ. Cô ấy tái mặt:
“Ông Cẩn… là em trai cùng cha khác mẹ với mẹ em. Lúc nhỏ có ở với bà ngoại. Sau đó mất liên lạc. Nghe đâu ông có để lại căn nhà ở Gò Vấp. Nhưng lâu quá, ai cũng nghĩ mất rồi.”
Tôi run tay, gấp lại tờ tiền. Tim tôi đập thình thịch.
Ngày hôm sau, tôi tìm đến địa chỉ ấy.
Và điều tôi phát hiện ra…
Sáng hôm sau, tôi bắt xe đến địa chỉ ghi sau tờ 50 nghìn: số 17/2, đường Trần Bình Trọng, Gò Vấp.
Ngôi nhà cũ nằm khuất trong con hẻm nhỏ, tường rêu phong phủ kín. Cửa khóa, bụi bám đầy tay nắm sắt. Tôi hỏi hàng xóm xung quanh. Có người già gật đầu:
“Nhà này bỏ hoang lâu rồi, chú ơi. Trước có ông già tên Cẩn ở đó, nhưng mất tích hay đi đâu chẳng ai biết. Mà nghe nói ông này chẳng có vợ con gì. Lúc mất, không ai đến nhận. Nhà bị bỏ không từ đó.”
Tôi bần thần. Tim tôi đập mạnh khi nghe tên ông Cẩn. Mẹ vợ tôi từng nhắc tên này một lần duy nhất, trong một lần nửa mê nửa tỉnh:
“Cẩn… nếu gặp lại… mẹ xin lỗi nó…”
Tôi hỏi thêm thì một cụ già chỉ sang bên trái:
“Muốn biết rõ thì hỏi ông tổ trưởng dân phố ấy. Ổng biết hết chuyện xóm này.”
Tôi đi bộ qua đó. Ông tổ trưởng nhìn tờ giấy tôi đưa và gật đầu:
“À, ông Cẩn là người ở đây, sống độc thân. Cách đây 5 năm, ông ấy bệnh nặng, đưa vào viện rồi mất. Nhưng trước đó, ông ấy từng gửi lại một lá thư và sổ đỏ căn nhà này nhờ tôi giữ, nói nếu có người đến, cầm đúng… một vật chứng.”
Tôi giật mình:
“Vật chứng gì ạ?”
Ông lục trong tủ hồ sơ, lấy ra một chiếc phong bì cũ, bọc nilon, ghi ngoài bằng mực đỏ đã phai:
“Đưa cho người cầm tờ tiền có chữ viết tay.”
Tôi mở ví, lấy tờ 50 nghìn. Ông soi kỹ, mím môi:
“Đúng là nó rồi. Tôi đã chờ người đến với tờ tiền này 5 năm rồi.”
Tôi há hốc. Ông đưa phong bì cho tôi. Bên trong là sổ đỏ căn nhà – chủ sở hữu: Nguyễn Văn Cẩn, kèm theo một lá thư viết tay:
“Người cầm tờ tiền này chắc chắn là người thân cận với Hường – chị gái tôi. Tôi để lại căn nhà này cho người đó. Không phải vì máu mủ, mà vì tôi tin rằng chỉ có người yêu thương chị tôi thật lòng mới đến được đây. Nếu ai đó bất chấp gian khó, giữ trọn lời dặn của chị ấy, thì người đó xứng đáng với căn nhà này hơn bất kỳ ai khác. Còn nếu là máu mủ, họ đã bỏ tôi từ lâu rồi…”
Tôi đọc mà tay run run. Mắt cay xè. Tôi mang tất cả về, kể lại cho vợ nghe.
Vợ tôi bật khóc. Cô không tin. Một phần tài sản mà gia đình tưởng đã mất, giờ lại về tay chúng tôi, theo cách không thể ngờ tới: bằng tình thương và sự thủy chung với mẹ vợ.
Chúng tôi làm thủ tục sang tên. Căn nhà ấy sau đó được sửa sang lại. Tôi không ở, mà để mở một quán cháo nhỏ – “Quán Cháo Mẹ Hường”, như một lời nhắc nhở.
Tôi nấu cháo mỗi sáng – giống như ngày xưa tôi từng nấu cho mẹ – rồi phát miễn phí mỗi thứ Hai cho bệnh nhân nghèo từ các bệnh viện lân cận. Có người hỏi tôi:
“Cháo này có bí quyết gì không mà ngọt lắm?”
Tôi chỉ cười:
“Nấu bằng lòng biết ơn.”
Cuối cùng, tôi vẫn giữ tờ 50 nghìn ấy.
Tôi ép nhựa, đóng khung, treo giữa quán, ngay trên bức ảnh đen trắng của mẹ vợ. Nhìn vào đó mỗi ngày, tôi lại thấy biết ơn. Không phải vì căn nhà, mà vì người mẹ từng không ưa tôi, nhưng sau cùng, lại tin tôi hơn cả con ruột.
Có người nói tôi may mắn. Nhưng tôi nghĩ, nếu hôm đó tôi tiêu tờ 50 nghìn ấy, có lẽ mọi chuyện đã khác.
Đôi khi, lòng tốt thật thà – dù âm thầm, không lời – sẽ trở thành cánh cửa mở ra những điều tốt đẹp nhất.