Thật sự tôi đến c;ạn l;ời với vợ, mẹ đẻ mất, vợ n/ằng n/ặc đòi đưa d;i ả;nh về thờ vì nhà không có em trai nhưng tôi không chấp nhận, ai ngờ vợ đưa ra 1 giờ giấy tôi lập tức đồng ý

“Tôi chưa từng nghĩ sẽ có một ngày chính tay tôi rước di ảnh mẹ vợ về thờ. Không phải vì tôi ghét bỏ, mà bởi điều đó với tôi là trái với lẽ thường. Ấy vậy mà, chỉ sau khi vợ đưa cho tôi một tờ giấy cũ kỹ, tôi lặng người rồi gật đầu không chút do dự…”

Tôi tên Hưng, 41 tuổi, sống cùng vợ và hai con tại một căn nhà nhỏ ở ngoại thành Hà Nội. Tôi làm nhân viên kỹ thuật tại một công ty điện lạnh, vợ tôi – Oanh – là giáo viên mầm non. Cuộc sống của chúng tôi tuy không giàu có, nhưng tạm gọi là êm ấm. Tôi là người sống theo nề nếp truyền thống, đặc biệt rất coi trọng đạo hiếu và cách ứng xử trong họ hàng.

Mẹ vợ tôi mất vào một buổi sáng tháng Mười. Bà bị tai biến lần hai và không qua khỏi. Bà chỉ có mỗi Oanh là con gái, còn ông bà không sinh thêm ai khác. Khi tang lễ xong xuôi, tôi nghĩ mọi việc đã kết thúc. Nhưng vào ngày thứ ba sau khi hạ huyệt, Oanh lại bảo tôi:

– Mình này, em muốn đưa di ảnh mẹ về nhà mình thờ…

Tôi sững người.

– Cái gì? Về nhà mình thờ? Em đùa à? Nhà mình là nhà chồng, ai lại làm vậy?

– Nhưng… nhà mẹ em không còn ai cả, giờ bỏ di ảnh ở nhà hoang thì lạnh lẽo quá. Mình cứ lập một bàn nhỏ, đặt cạnh bàn thờ tổ tiên, không ảnh hưởng gì mà…

Tôi lắc đầu, cố giữ giọng bình tĩnh:

– Anh hiểu em thương mẹ. Nhưng cái này là chuyện lớn. Thờ phụng là việc bên nội bên ngoại phải rõ ràng. Người ngoài nhìn vào lại nghĩ vợ chồng mình đảo ngược vai vế. Lỡ con cái nó lớn lên, nó bối rối thì sao?

Oanh nhìn tôi, ánh mắt đỏ hoe nhưng không nói thêm. Tôi tưởng mọi chuyện dừng lại ở đó.

Hai ngày sau, Oanh đưa cho tôi một phong bì. Cô ấy bảo:

– Anh đọc đi rồi hẵng quyết định.

Bên trong là một tờ giấy cũ, ố vàng, gập làm bốn. Tôi mở ra, đọc xong thì tay run lên. Đó là tờ khai sinh của tôi – do chính mẹ vợ làm người khai sinh.

Dưới cột “người khai sinh” là tên bà: Nguyễn Thị Ngọc, mực xanh đã phai, bên dưới có chữ ký xác nhận của Ủy ban Nhân dân phường Văn Quán – ngày 12 tháng 3 năm 1984.

Tôi thẫn thờ. Hồi nhỏ tôi từng nghe mẹ tôi kể rằng lúc bà sinh tôi thì sức khỏe rất yếu, phải nằm viện hàng tuần. Bà nhờ một người bạn thân đi làm giấy khai sinh cho tôi. Hóa ra người bạn đó… chính là mẹ vợ tôi – khi ấy còn là đồng nghiệp của mẹ tôi tại một hợp tác xã dệt.

Oanh nhìn tôi, khẽ nói:

– Mẹ nói, ngày đó mẹ đi làm giấy khai sinh cho anh, bà nội anh còn dặn mẹ chăm lo cho anh nếu sau này có chuyện gì. Mẹ em bảo anh là người “có duyên” với nhà này từ kiếp trước…

Tôi không còn nói được lời nào.

Sự cứng nhắc trong tôi dần tan chảy thành cảm xúc. Một người phụ nữ cả đời tảo tần, cuối đời không có con trai, nhà cửa vắng lạnh. Nếu tôi từ chối không cho bà một bàn thờ, khác gì đóng sập cánh cửa cuối cùng nối bà với trần gian?

Tối hôm đó, tôi chủ động đi mua bát nhang, đèn dầu và khung ảnh mới. Tôi cùng vợ lập một bàn nhỏ, đặt phía dưới bàn thờ tổ tiên đúng một bậc – như để bà vẫn là một phần trong gia đình, nhưng không lẫn vai vế.

Tôi quỳ xuống châm nến, lòng nhẹ tênh như vừa trả được một món nợ ân tình từ thuở xa xưa.

Sau hôm lập bàn thờ, tôi nhận thấy Oanh có phần trầm ngâm hơn thường lệ. Cô ấy dậy sớm thắp hương cho mẹ mỗi sáng, có hôm còn ngồi hàng tiếng trước di ảnh chỉ để thì thầm những câu không đầu không cuối.

Một tối nọ, tôi đi làm về muộn. Vừa vào cửa, thấy Oanh đang lau lại khung ảnh mẹ. Tôi buột miệng hỏi:

– Em có giận anh không? Vì lúc đầu anh phản đối chuyện này?

Oanh nhìn tôi, lắc đầu:

– Không. Em hiểu. Em chỉ thấy… nếu mình không đấu tranh đến cùng, chắc mẹ em đã thật sự bị quên lãng rồi.

Tôi ngồi xuống cạnh cô, cầm tay vợ thật chặt.

– Cảm ơn em vì đã cho anh một cơ hội để hiểu thêm về mẹ. Về chính mình.

Cô mỉm cười, mắt rưng rưng.

Từ đó, những người trong xóm bắt đầu chú ý. Có người khen tôi “có hiếu”, có người lại xì xào rằng “lập bàn thờ mẹ vợ trong nhà là kỳ cục”. Tôi không để tâm. Nhưng có một hôm, bác trưởng họ bên nội đến chơi. Vừa bước vào nhà, bác đã khựng lại trước bàn thờ nhỏ, mắt nhìn chăm chú.

Bác quay sang hỏi:

– Bàn thờ ai đây?

Tôi đáp:

– Dạ, mẹ vợ cháu ạ. Bà mất mà không có con trai, vợ chồng cháu muốn lập bàn thờ để bà không cô quạnh.

Bác gật đầu chậm rãi. Tôi chờ một lời trách mắng, nhưng bác chỉ nói:

– Người sống mà biết quý người đã khuất, ấy là điều đáng mừng. Đừng để hình thức làm mất đi cái tâm.

Tôi thở phào.

Cuối năm ấy, trong một bữa cơm cúng tất niên, thằng bé con tôi – mới 7 tuổi – bất chợt hỏi:

– Bố ơi, bà ngoại có phải là gia đình mình không?

Tôi nhìn nó, gật đầu:

– Có chứ con. Bà ngoại cũng là người yêu thương bố mẹ con, nên bà là một phần của gia đình mình.

Nó nhìn lên di ảnh, cười:

– Vậy con cũng chúc bà ngoại năm mới vui vẻ!

Tôi bỗng nghẹn ngào. Hóa ra, có những giới hạn không nằm trong sách vở hay phong tục. Chúng nằm trong trái tim mỗi người – dũng cảm thừa nhận, vượt qua, và yêu thương.

Và tôi biết: gia đình không chỉ là nơi ta sinh ra, mà còn là nơi trái tim ta không ngừng hướng về.

Có lẽ, khi mẹ vợ tôi đi làm giấy khai sinh cho tôi năm ấy, bà đâu ngờ sẽ có ngày tôi thay con trai bà, lập cho bà một bàn thờ trong chính ngôi nhà nhỏ này. Nhưng đời là vậy – những nhân duyên lặng lẽ luôn âm thầm bồi đắp cho những nghĩa tình bền vững nhất…