Vì quy hoạch, dân làng quyết chặt hạ cây cổ thụ đầu đình để mở đường. Nào ngờ đêm đó cả làng mất:t điện, sấm chớp đùng đùng, sáng hôm sau nhà nào có tr:;ẻ c;;:on cũng

Vì quy hoạch, dân làng quyết chặt hạ cây cổ thụ đầu đình để mở đường. Nào ngờ đêm đó cả làng mất điện, sấm chớp đùng đùng, sáng hôm sau nhà nào có trẻ con cũng đều…

Xóm Gò Cát nằm khuất sau một dãy núi thấp, bao đời nay sống bình yên bên bờ sông Mã. Ở đầu làng, ngay trước cổng đình làng cũ, có một cây đa cổ thụ sừng sững – người làng gọi nó là “cụ Đa”. Rễ chằng chịt, thân cây to hai người ôm không xuể. Trẻ con chơi trốn tìm, người lớn họp làng, già làng kể chuyện tâm linh… tất cả đều xoay quanh gốc đa ấy như trung tâm linh hồn của cả làng.

Nhưng thời thế đổi thay. Làng Gò Cát được chọn làm điểm xây dựng tuyến đường liên xã. Cái cây nằm đúng chỗ cần mở rộng, thành ra… “vướng quy hoạch”. Sau nhiều buổi họp bàn, tranh luận nảy lửa, cuối cùng Trưởng thôn – ông Bảy Lễ – đại diện dân ký vào biên bản chấp thuận: chặt hạ cây đa cổ thụ để giải phóng mặt bằng.

Chính ông Bảy cũng thở dài:
– Tâm linh thì tâm linh, nhưng không thể để cả làng nghèo mãi vì một cái cây. Phải mở đường cho con cháu đi học, đi làm!

Người phản đối quyết liệt nhất là cụ Trần – một trong những bô lão sống lâu nhất làng, năm nay đã ngoài 80 tuổi, mắt mờ nhưng tai vẫn thính. Nghe tin cây sẽ bị đốn, cụ chỉ lắc đầu, bảo nhỏ với cháu:
– Cây đa ấy không phải cây thường. Chặt đi, e là… long mạch động.

Cháu cụ – Việt – là sinh viên năm hai ngành xây dựng ở Hà Nội, về quê nghỉ hè. Nghe chuyện, Việt cười:
– Thời đại nào rồi còn tin mấy chuyện đó, cụ ơi. Cây lớn thì dễ sét đánh, chặt đi cũng an toàn hơn!

Cụ Trần không nói gì nữa. Nhưng tối hôm đó, cụ lặng lẽ ra thắp hương dưới gốc đa, tay run run vái ba vái rồi cắm một nắm hương.
Khói quyện lên, mùi thơm nhè nhẹ lan ra giữa khoảng sân vắng.

Sáng hôm sau, xe cẩu, cưa máy, công nhân kéo đến. Dân làng bu lại coi. Ai cũng im lặng, nửa tin nửa ngờ.

Tiếng cưa máy rít lên, thân cây rung chuyển. Một nhánh lớn rơi xuống, đập trúng mái đình kêu “rầm” – làm vỡ mất mấy viên ngói cổ. Trưởng nhóm thi công cười gượng:
– Chuyện bình thường mà, gió mạnh thôi.

Đến chiều, cây bị cắt trơ gốc. Người ta khoan sâu vào thân cây, đổ thuốc để cây chết hẳn. Xong việc, ai nấy tản đi.

Đêm hôm đó, giông nổi lên.

Sấm chớp đùng đoàng như đánh ngay sát mái nhà. Gió rít liên hồi. Điện phụt tắt lúc 11 giờ đêm, cả làng chìm trong bóng tối. Trẻ con giật mình khóc thét. Người lớn lục đục tìm đèn pin, nến.
Rồi… tiếng động lạ bắt đầu xuất hiện.

Từ đầu làng vọng lại tiếng gió rít rất gần, xen lẫn tiếng “cộc cộc” như ai đang gõ xuống đất bằng gậy gỗ. Có nhà nói nghe thấy tiếng trẻ con cười khúc khích ngay ngoài cửa sổ, nhưng mở cửa ra chỉ thấy bóng đêm đặc quánh.

Cụ Trần đêm đó ngồi bất động trước bàn thờ, tay cầm chuỗi tràng hạt. Cụ không ngủ.

Sáng hôm sau, khi điện chưa kịp có lại, dân làng bắt đầu hoang mang thực sự.

Nhà nào có trẻ nhỏ cũng báo… con mình không tỉnh dậy được.
Chúng vẫn thở, không sốt, không đau, nhưng gọi không phản ứng. Đưa đi trạm y tế, bác sĩ cũng bó tay:
– Không phát hiện dấu hiệu bệnh lý nào. Giống như… các cháu đang ngủ mê quá sâu.

Bảy đứa trẻ trong làng cùng rơi vào trạng thái đó. Đáng nói, có ba đứa là cháu ruột của ba người trong ban quyết định chặt cây.

Không ai dám nói to, nhưng mọi ánh mắt đều bắt đầu nhìn về phía… gốc cây đa.

Cây đã trơ trụi, nhưng… gốc vẫn ươn ướt nhựa, không khô lại như bình thường. Vài người bảo ban đêm thấy ánh sáng mờ như lửa lập lòe quanh đó. Một bà già gần đình bảo nghe tiếng gọi thì thào:

– Về… trả lại chỗ ta…

Trưởng thôn Bảy Lễ tái mặt. Ông mời sư thầy từ chùa Kim Cốc bên kia sông sang xem.
Sư thầy đến, nhìn cây, lặng im. Rồi quay sang hỏi:

– Trước khi chặt cây, có làm lễ xin phép không?

Ông Bảy gãi đầu:

– Có thắp hương. Mấy nén thôi, làm lấy lệ…

Sư thầy thở dài, bảo:

– Thế là chưa đủ. Cây cổ thụ trăm năm gắn với đình làng, linh khí quy tụ. Không xin – coi như phạm.

Dân làng xì xào:
– Phạm rồi! Phạm rồi!

Việt – ban đầu còn tỏ ra bàng quan – giờ cũng cảm thấy rờn rợn. Em gái Việt, bé Thuỷ – 6 tuổi – cũng nằm mê man từ sáng.

Cụ Trần nói:

– Nếu con tin, hãy theo cụ làm một lễ xin lỗi. May ra…

Việt gật đầu. Cậu không còn dám chắc lý trí khoa học là đủ.

Họ cùng ra gốc đa, thắp hương, dâng lễ vật đơn sơ: bát chè, quả chuối, nén nhang thơm. Cụ Trần lẩm nhẩm khấn:

– Cây thiêng, hồn linh, nếu dân làng lỡ dại, xin tha thứ. Trẻ con vô tội, mong người buông tha…

Hương tàn hết, cả làng vẫn im lặng. Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Sáng ngày thứ hai kể từ khi cây đa bị chặt, cả làng Gò Cát vẫn chìm trong không khí nặng nề. Bảy đứa trẻ vẫn chưa tỉnh lại. Dù không có dấu hiệu nguy hiểm đến tính mạng, nhưng suốt từ lúc ngủ mê tới giờ, không ai lay gọi được chúng mở mắt.

Việt sau khi cùng cụ Trần làm lễ đêm qua, suốt cả sáng ngồi bên giường em gái Thuỷ, lòng rối như tơ vò. Cậu không thể tin thứ đang xảy ra trong ngôi làng mình từng nghĩ là bình dị, yên ổn.

Cụ Trần sau buổi khấn hôm qua bỗng như trở nên trầm mặc hẳn. Cụ không nói gì nhiều, chỉ thở dài và lôi từ hòm gỗ cũ ra một quyển sổ tay đã úa màu, bên trong là những trang viết tay loằng ngoằng từ thời ông nội cụ để lại.

Cụ đưa quyển sổ cho Việt:

– Nếu con thực sự muốn hiểu chuyện gì đang xảy ra, hãy đọc đi. Đây là chuyện không phải ai trong làng cũng biết, và cũng không ai muốn nhắc lại.

Theo cuốn sổ ghi lại, gốc đa đầu làng từng là nơi chôn giữ một lời nguyền. Chuyện xảy ra cách đây gần trăm năm. Hồi đó, thời Pháp thuộc, có một viên cai tổng người Việt tên là Trần Văn Hậu, rất tàn ác. Hắn bắt dân làng Gò Cát nộp sưu cao thuế nặng, ai không nộp được đều bị trói đánh ngay tại sân đình – dưới gốc đa.

Một ngày, một cụ bà mù tên là Lành, sống một mình, bị cáo buộc trốn thuế. Cụ bị bắt ra đình, đánh đòn giữa trưa nắng. Cụ Lành khi ấy không van xin, chỉ ngẩng mặt lên trời, nói một câu rành rọt:

– Tội tôi mang xuống đất, oan tôi gửi vào cây. Ai động tới gốc này, con cháu người ấy sẽ không còn yên giấc.

Ngay đêm hôm đó, cụ Lành treo cổ chết dưới gốc đa.

Từ đó, cây đa ấy trở thành nơi người dân làng cúng vọng mỗi dịp lễ rằm, cầu mưa thuận gió hoà, tránh tai ương. Không ai dám chặt một cành, bẻ một lá.

Việt đọc đến đó thì cảm thấy lạnh sống lưng. Trong danh sách ban chấp thuận đốn hạ cây đa vừa qua, có ông Lễ, ông Phúc, ông Minh – đều là… cháu chắt của những người từng trực tiếp đánh cụ Lành năm xưa.

Cả ba nhà này, hiện tại… đều có con cháu đang nằm mê man.

Việt lật tiếp trang cuối, thấy một dòng chữ mờ nhòe viết bằng mực nho:
“Muốn giải lời, phải trả lại lời. Cây mất gốc, người phải dựng tâm.”

Việt đem chuyện kể lại với cụ Trần, cụ gật đầu:

– Vậy là cháu cũng thấy rồi. Muốn cứu lũ trẻ, làng phải xin lỗi thật lòng – không chỉ là thắp hương cho có.

Chiều hôm đó, ông Bảy Lễ tập hợp dân làng, đứng giữa sân đình, cúi đầu xin lỗi:

– Tôi là trưởng thôn, là người đã thay mặt ký tên chặt cây. Tôi xin nhận sai vì không xem xét kỹ yếu tố tâm linh và lịch sử. Nếu tổ tiên bị xúc phạm, xin cho tôi mang tội, xin tha cho lũ trẻ…

Mỗi người trong làng lần lượt dâng lễ vật đơn sơ: củ khoai, nải chuối, bát cơm trắng, nén nhang – những thứ gắn liền với dân nghèo và lễ nghĩa cổ truyền. Họ quỳ trước gốc đa đã bị cắt trơ gốc, cắm hương vào lòng đất.

Cụ Trần mặc áo dài nâu, tay cầm quyển sổ cổ, đứng ra đọc bài khấn:

“Nếu cây là nơi gửi oan, thì người xin được gỡ oan. Nếu cây từng chứng kiến đòn roi, thì nay xin cây chứng kiến lòng ăn năn.”

Gió nổi lên nhẹ nhẹ.

Một con chim lạ – giống chim khách nhưng to hơn – bay tới, đậu lên gốc cây trơ trụi rồi hót lên một tràng dài. Mọi người nín thở.

Đêm đó, lần đầu tiên sau ba ngày, trời quang không một tiếng sấm. Sáng hôm sau, tin vui lan khắp làng: các đứa trẻ đều đã tỉnh dậy. Không đau đớn, không sợ hãi – chỉ hỏi:

– Mẹ ơi, sao hôm qua con mơ thấy… có bà già gọi con ngồi chơi dưới gốc đa?

Việt ôm em gái, nước mắt trào ra. Cậu ngước nhìn gốc cây, thấy lũ trẻ con đang chơi trốn tìm quanh đó như xưa.

Sau sự kiện đó, dân làng Gò Cát họp bàn, quyết định: giữ lại phần đất quanh gốc cây, xây một miếu nhỏ thờ “Cụ Lành” – như cách tạ lỗi với quá khứ.

Con đường liên xã vẫn mở, nhưng vòng tránh qua khu đất thiêng. Chính quyền huyện không phản đối, vì báo cáo lên thì gọi là “bảo tồn di tích văn hóa dân gian”.

Việt sau kỳ nghỉ hè đó quay lại Hà Nội học, mang theo câu chuyện không thể nào quên. Cậu bắt đầu viết luận văn tốt nghiệp về chủ đề: “Quy hoạch phát triển và việc gìn giữ không gian văn hóa làng quê”.

Không ai còn dám gọi gốc đa là “cây cản đường” nữa. Bởi người làng Gò Cát đã hiểu:
Phát triển không có nghĩa là xóa sạch quá khứ. Có những thứ không thể đo bằng mét vuông hay tiền bạc – mà bằng cả một đời ký ức.