Theo Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2024, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, người tham gia BHXH tự nguyện sẽ chính thức được hưởng thêm chế độ trợ cấp thai sản.
Ngày 2 tháng 9 năm 2025, tạp chí Thương Hiệu Pháp Luật đăng tải bài viết với tiêu đề “Chính thức hàng nghìn người sẽ được nhận ít nhất 2 triệu đồng từ khoản trợ cấp mới, ai không biết chịu thiệt thòi”. Nội dung như sau:
Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2024, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, được ban hành nhằm kế thừa các quy định phù hợp đã phát huy hiệu quả, đồng thời sửa đổi những bất cập để đảm bảo tính khả thi, thống nhất và bảo vệ tốt hơn quyền lợi người lao động.
Cụ thể, theo khoản 3 Điều 4 Luật BHXH năm 2024, các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm: Trợ cấp thai sản; hưu trí; tử tuất. Như vậy, từ ngày 1/7/2025, người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được hưởng thêm chế độ trợ cấp thai sản.

Điều này đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc tăng cường an sinh xã hội, khuyến khích người dân tham gia BHXH tự nguyện, đặc biệt là lao động tự do, người làm việc không có hợp đồng lao động chính thức.
Điều 94, 95, 96 và 97 của Luật BHXH 2024 quy định về chế độ trợ cấp thai sản với người tham gia BHXH tự nguyện như sau:
Đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp thai sản
Điều kiện để được hưởng trợ cấp thai sản đối với người tham gia BHXH tự nguyện là đã có thời gian đóng BHXH tự nguyện hoặc vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Các đối tượng được áp dụng gồm: Lao động nữ sinh con, lao động nam có vợ sinh con.
Trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp thai sản.
Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản quy định tại khoản 1 Điều 94 Luật này thì chỉ cha hoặc mẹ được hưởng trợ cấp thai sản.

Trường hợp người quy định tại khoản 1 Điều 94 vừa có đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản trong BHXH tự nguyện và vừa có đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản trong BHXH bắt buộc thì chỉ được hưởng chế độ thai sản trong BHXH bắt buộc.
Trường hợp mẹ đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản trong BHXH bắt buộc, cha đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản trong BHXH tự nguyện thì mẹ được hưởng chế độ thai sản trong BHXH bắt buộc và cha được hưởng trợ cấp thai sản trong BHXH tự nguyện.
Trường hợp cha đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản trong BHXH bắt buộc, mẹ đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản trong BHXH tự nguyện thì cha được hưởng chế độ thai sản trong BHXH bắt buộc và mẹ được hưởng trợ cấp thai sản trong BHXH tự nguyện.
Mức hưởng trợ cấp thai sản

Mức trợ cấp thai sản là 2 triệu đồng cho mỗi con được sinh ra và mỗi thai từ 22 tuần tuổi trở lên chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ.
Lao động nữ là người dân tộc thiểu số hoặc lao động nữ là người dân tộc Kinh có chồng là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo khi sinh con còn được hưởng chính sách hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ.
Ngân sách Nhà nước bảo đảm thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 95 Luật BHXH 2024. Chính phủ quyết định điều chỉnh mức trợ cấp thai sản phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.
Trước đó, chuyên trang Góc Nhìn Pháp Lý đăng tải bài viết với tiêu đề “Tin vui: Từ 1/7, hàng triệu người được nhận trợ cấp chưa từng có, biết ngay để nhận đủ số tiền”. Nội dung như sau:
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7 tới đây, bổ sung chính sách trợ cấp hưu trí xã hội – một điểm mới đáng chú ý nhằm tăng cường an sinh cho người cao tuổi không có lương hưu.
Theo quy định mới, công dân Việt Nam từ 70 tuổi trở lên, nếu không có lương hưu và đủ điều kiện theo quy định, sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội do ngân sách Nhà nước chi trả. Đây là một trong ba tầng của hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, bao gồm: bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm hưu trí bổ sung, hướng đến mục tiêu bao phủ toàn dân.
Trợ cấp hưu trí xã hội được kế thừa từ chính sách trợ cấp xã hội hằng tháng cho người cao tuổi, nhưng có nhiều điểm mở rộng hơn. Cụ thể, độ tuổi hưởng trợ cấp được hạ xuống còn từ 75 tuổi (thay vì 80 tuổi như trước). Ngoài ra, người từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo hoặc cận nghèo cũng có thể được hưởng nếu đáp ứng các điều kiện đi kèm.
Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 quy định rõ: người đủ 75 tuổi trở lên, không nhận lương hưu hay trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng (trừ một số trường hợp do Chính phủ quy định) và có văn bản đề nghị hưởng sẽ được xem xét cấp trợ cấp hưu trí xã hội.

Mức hưởng và ngân sách dự kiến
Mức trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng sẽ do Chính phủ quy định, căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội và khả năng ngân sách từng giai đoạn. Theo dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, mức đề xuất hiện tại là 500.000 đồng/tháng, tương đương mức trợ cấp xã hội hằng tháng hiện hành theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP.
Chính phủ sẽ tiến hành rà soát và xem xét điều chỉnh định kỳ 3 năm. Các địa phương cũng có thể đề xuất hỗ trợ thêm từ ngân sách địa phương để tăng mức trợ cấp cho người thụ hưởng.
Dự kiến, khi chính sách có hiệu lực từ 1/7/2025, sẽ có hơn 1,2 triệu người cao tuổi được thụ hưởng, với tổng ngân sách ước tính khoảng 4.000 – 5.000 tỷ đồng cho mỗi giai đoạn.
Người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội sẽ được Nhà nước đóng bảo hiểm y tế. Khi qua đời, gia đình hoặc tổ chức, cá nhân lo mai táng sẽ được hỗ trợ chi phí theo quy định của pháp luật về người cao tuổi.
Luật cũng trao quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội trong tương lai, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và năng lực tài chính của Nhà nước.
So với Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, chính sách trợ cấp hưu trí xã hội là điểm mới mang tính nhân văn sâu sắc của Luật năm 2024. Đây là bước tiến quan trọng nhằm hỗ trợ người cao tuổi không có lương hưu, qua đó tăng cường hệ thống an sinh xã hội và đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.
Điều kiện để người 70 tuổi được nhận trợ cấp hưu trí xã hội từ 1/7/2025
Luật Bảo hiểm xã hội 2024 đã bổ sung Chương III về trợ cấp hưu trí xã hội quy định một số điểm mới cho người nhận trợ cấp hưu trí từ ngày 1/7/2025.
Theo đó, trợ cấp hưu trí xã hội là loại hình bảo hiểm xã hội do ngân sách nhà nước bảo đảm cho người cao tuổi đủ điều kiện theo quy định. (Khoản 2 Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội 2024).
Theo Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 quy định đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội như sau:
– Công dân Việt Nam được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội khi có đủ các điều kiện sau đây:
(1) Từ đủ 75 tuổi trở lên;
(2) Không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trừ trường hợp khác theo quy định của Chính phủ;
(3) Có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
– Công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đáp ứng đủ điều kiện quy định tại điểm (2) và điểm (3)thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
– Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội trên cơ sở đề nghị của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.
Như vậy, từ 1/7/2025, công dân đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi đáp ứng các điều kiện sau đây thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội:
– Thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo;
– Không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trừ trường hợp khác theo quy định của Chính phủ;
– Có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Mức hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ 1/7/2025
Mức hưởng trợ cấp hưu trí xã hội được quy định theo Điều 22 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 như sau:
– Mức trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng do Chính phủ quy định phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ. Định kỳ 03 năm, Chính phủ thực hiện rà soát, xem xét việc điều chỉnh mức trợ cấp hưu trí xã hội.
Tùy theo điều kiện kinh tế – xã hội, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Như vậy, mức hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ 1/7/2025 vẫn sẽ giữ nguyên như quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP như sau:
Mức trợ cấp cho từng nhóm được tính theo hệ số, căn cứ vào mức chuẩn trợ giúp xã hội là 500.000 đồng/tháng (quy định tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, sửa đổi tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 76/2024/NĐ-CP).