Home Blog Page 13

Thương 2 bà cháu ă;n xi;n mưa ướt, tôi liền mời vào nhà trú tạm, ai ngờ cậu bé liền chỉ tay lên về phía bức ảnh trên tường rồi nói 1 câu khiến tôi bàng hoàng…

Thương hai bà cháu ăn xin mưa ướt, tôi liền mời vào nhà trú tạm, ai ngờ cậu bé liền chỉ tay lên về phía bức ảnh trên tường rồi nói một câu khiến tôi bàng hoàng…”

Chiều ấy, trời Sài Gòn bỗng đổ mưa như trút. Cơn mưa đầu mùa không lớn, nhưng dai dẳng và lạnh. Tôi – một người đàn ông ngoài ba mươi, sống một mình trong căn nhà nhỏ nằm trong con hẻm ở quận Tân Bình – đang nhâm nhi ly trà nóng thì nghe tiếng trẻ con ho khúc khắc bên ngoài cửa.

Tò mò nhìn qua khe cửa, tôi thấy một bà cụ dáng người còm cõi, lưng còng gập, tay cầm chiếc túi nilon che đầu, bên cạnh là một cậu bé tầm chín, mười tuổi, gầy gò, áo mỏng dính ướt đẫm. Hai bà cháu đứng nép dưới hiên nhà tôi, không dám gõ cửa, chỉ mong tránh cơn mưa đang ngày càng lạnh buốt.

Tôi mở cửa, mời họ vào.

“Vô nhà ngồi tạm đi bà ơi, mưa vầy đứng hoài coi chừng bệnh đó.”

Bà cụ lúng túng, đôi mắt lòa nheo lại nhìn tôi, run run: “Cảm ơn chú… tụi tôi không dám làm phiền đâu.”

“Không có gì, vô đi, lau người cho thằng bé kẻo cảm.”

Thế là hai bà cháu vào nhà. Tôi đưa cái khăn lông và một ly trà nóng. Cậu bé rụt rè nhận lấy, nhưng mắt vẫn đảo quanh căn nhà, lạ lẫm.

Căn nhà tôi đơn sơ, ngoài mấy món đồ nội thất cơ bản thì chỉ có vài bức ảnh treo tường. Một bức là hình tôi chụp cùng bố mẹ đã mất, một là bức ảnh cũ màu đen trắng – một người lính trẻ trong bộ quân phục, tay cầm nón sắt, nét mặt cương nghị. Bức ảnh ấy tôi treo ngay trên kệ tủ giữa phòng khách. Đó là bác tôi – liệt sĩ, người anh của cha tôi.

Cậu bé đột ngột đứng bật dậy, mắt tròn xoe, chỉ tay lên bức ảnh rồi hỏi:

“Ông kia là ai vậy chú?”

Tôi cười hiền: “Đó là bác của chú, mất từ hồi chiến tranh…”

Chưa kịp nói hết câu, cậu bé lẩm bẩm một câu khiến tôi sững người:

“Con từng thấy ông đó… trong giấc mơ.”

Tôi im lặng vài giây. Những lời ấy như một cơn gió lạnh thổi xuyên tâm trí. Làm sao một đứa bé ăn xin – chưa từng quen biết tôi – lại nhận ra được người trong bức ảnh chụp từ mấy chục năm trước?

Tôi cố giữ bình tĩnh, hỏi lại:

“Con thấy sao?”

“Ông ngồi dưới gốc cây, tay cầm quyển sổ. Ông kể chuyện chiến tranh… rồi bảo con phải tìm người có ngón tay cong…”

Tôi giật mình nhìn xuống bàn tay trái của mình – ngón trỏ hơi cong nhẹ từ nhỏ vì một tai nạn lúc chơi bóng bàn hồi cấp hai.

Bà cụ lúc đó đã tỉnh táo hơn, vội vã kéo tay đứa bé lại, miệng thì thào: “Đừng nói linh tinh nữa, Tí.”

Nhưng tôi lúc này như bị cuốn vào một điều gì đó rất lạ. Tôi gặng hỏi bà cụ xem bà cháu ở đâu, có ai thân thích không. Bà nói sống vất vưởng mấy năm nay, ngủ dưới gầm cầu hoặc lề đường. Cậu bé không phải cháu ruột, là con của một người hàng xóm trước kia ở quê, gửi lại rồi biệt tăm.

Tôi ngồi lặng đi. Một phần vì xúc động, phần khác là cảm giác có gì đó rất gắn bó, thân quen với cậu bé này – như thể đã từng gặp. Câu chuyện cậu kể không thể là ngẫu nhiên. Thằng bé chẳng hề sợ sệt khi nói ra, mà như tin chắc rằng nó có lý do để đến đây.

Tôi lấy cơm cho hai bà cháu ăn. Cậu bé ăn ngấu nghiến, nhưng không quên chia phần cho bà. Dáng vẻ của nó tuy gầy gò, nhưng có nét lanh lợi, thông minh.

Đêm đó, tôi sắp xếp cho hai bà cháu ngủ lại phòng khách. Trời vẫn mưa. Tôi không ngủ được, cứ trằn trọc nhớ lại ánh mắt của thằng bé khi nhìn bức ảnh, và lời nó nói về giấc mơ.

Sáng hôm sau, tôi đưa họ đi khám sức khỏe. Bác sĩ bảo thằng bé bị thiếu máu nhẹ, bà cụ thì huyết áp cao và viêm khớp nặng. Tôi thấy lòng mình nặng trĩu. Hai con người này chẳng còn nơi nào để đi, nếu tôi không giúp thì ai sẽ giúp?

Tối đó, khi tôi định đưa hai bà cháu ra thuê trọ tạm gần chợ Bàu Cát, cậu bé đột nhiên quay sang tôi và hỏi:

“Chú tên Tâm hả?”

Tôi gật đầu, ngạc nhiên vì chưa từng nói tên mình.

Nó gật gù: “Ông trong ảnh bảo con sẽ gặp chú Tâm. Chú sẽ là gia đình mới của con.”

Tôi ngẩn người, không hiểu đây là giấc mơ hay sự thật. Nhưng lòng tôi bỗng chùng xuống. Trong khoảnh khắc đó, tôi biết… chuyện này không chỉ là một cuộc gặp tình cờ.

Nó là một nhân duyên.

Tôi quyết định giữ hai bà cháu ở lại nhà thêm vài hôm để tiện chăm sóc. Cậu bé – tên Tí – càng lúc càng khiến tôi để tâm nhiều hơn. Nó lanh lợi, lễ phép, hay quan sát và đặc biệt rất thương bà. Mỗi lần bà cụ ho, nó đều chạy đi lấy nước, lấy dầu gió. Một đứa trẻ sống lang thang mà vẫn giữ được sự tinh tế và tử tế như vậy thật hiếm.

Tôi bắt đầu để ý những cơn mơ lặp lại của Tí.

Đêm nào ngủ, nó cũng ú ớ, thì thầm tên “ông lính” trong ảnh. Có đêm còn ngồi bật dậy, toát mồ hôi, nói mớ:

“Con chưa tới được… đường mòn… có chiếc xe jeep xanh… ông đợi…”

Tôi hỏi thì nó lắc đầu, nói không nhớ gì, chỉ thấy mình đang đi trong rừng, rồi gặp một người mặc áo bộ đội, mặt giống hệt người trong bức ảnh.

Linh tính mách bảo tôi rằng có điều gì đó chưa được giải mã. Tôi bắt đầu tìm lại tư liệu cũ của gia đình. Hộp kỷ vật của bác tôi vẫn còn, bên trong là một lá thư ông viết gửi cha tôi trước khi nhập ngũ – nét chữ nắn nót, kể về một đợt hành quân cuối cùng ở Tây Nguyên. Ông nhắc đến một người tên là Thu, một người phụ nữ ông thương yêu nhưng chưa từng nói rõ mối quan hệ.

Điều kỳ lạ là khi tôi đọc tên “Thu” lên, bà cụ ăn xin đang nấu nước dưới bếp bỗng khựng lại, quay đầu, mắt mở lớn:

“Cậu vừa nói ai cơ?”

Tôi cầm lá thư ra, hỏi bà cụ có quen cái tên này không.

Bà run run, lấy kính ra đeo, đọc một hồi rồi bỗng bật khóc.

“Là chị tôi… Thu là chị ruột tôi… Mất tích từ hồi năm 75…”

Không khí như đông cứng lại. Tôi cảm thấy một sợi dây vô hình đang từ từ hiện ra – gắn kết chúng tôi lại bằng quá khứ bị lãng quên.

Bà kể, chị Thu là người duy nhất trong gia đình bà có tri thức, được đi học, sau đó vào Sài Gòn công tác thời chiến. Năm 1974, chị viết thư về nói đang yêu một người lính miền Bắc, nói rằng sẽ lập gia đình sau chiến tranh. Nhưng đến 1975, chị bặt vô âm tín. Gia đình tưởng chị đã chết.

Bức ảnh bác tôi trong bộ quân phục kia… chính là người đàn ông ấy?

Tôi hỏi bà:

“Vậy còn mẹ của Tí…?”

Bà im lặng. Mãi một lúc sau, bà mới kể. Có một đứa con gái – chị tên Hiền – từng bị ép lấy chồng ở quê, sinh được một đứa con. Nhưng sau đó, bỏ đi vì bị chồng bạo hành. Mười năm không ai gặp lại. Tới một ngày, có người trong xóm thấy chị Hiền trở về, ôm theo một đứa bé – là Tí – và nhờ hàng xóm trông giùm để đi mua thuốc. Rồi mất hút từ đó.

Bà nhận nuôi đứa bé vì thương. Không giấy tờ, không thân thích, bà đành dắt cháu đi lang thang kiếm sống.

Tôi lập tức mang hộp kỷ vật, ảnh cũ và cả bức thư đến nhờ bạn cũ – một cán bộ bên Quân khu 7 – tra lại hồ sơ liệt sĩ. Một tuần sau, có kết quả.

Bác tôi – Nguyễn Văn Cường, hy sinh trong một trận đánh gần Buôn Ma Thuột năm 1975. Trước khi hy sinh, ông từng được cấp trên cho nghỉ ba ngày ở Pleiku, nơi ông đăng ký tạm trú dưới tên giả là “Lê Văn Hùng”.

Và đúng địa chỉ đó, từng có một người phụ nữ tên Nguyễn Thị Thu làm việc – tức là chị của bà cụ ăn xin. Có một bức ảnh duy nhất chụp chung hai người tại địa phương. Tôi mang về cho bà cụ xem. Bà òa khóc.

“Chắc chắn là chị tôi… còn ông lính… là anh rể tôi rồi.”

Tôi như vỡ òa. Tí chính là cháu gọi bác tôi bằng ông ngoại.

Cậu bé, qua bao năm tháng lang bạt, vô tình – hoặc có thể do một sự dẫn dắt kỳ lạ nào đó – mà tìm về đúng ngôi nhà của dòng tộc mình. Không ai dạy, không ai chỉ, chỉ có những giấc mơ kỳ lạ và ánh mắt đau đáu của một đứa trẻ khao khát được thuộc về.

Tôi quyết định làm giấy giám hộ cho Tí. Không dễ, vì cậu bé không có giấy khai sinh, nhưng nhờ sự hỗ trợ của bạn tôi và hồ sơ đối chiếu từ phía quân đội, cuối cùng chúng tôi cũng làm được thủ tục.

Tí chính thức được mang họ Nguyễn, là cháu nội của gia đình tôi.

Căn nhà nhỏ giờ rộn tiếng cười. Tôi xin nghỉ việc ở công ty thiết kế để chuyển sang dạy bán thời gian, dành nhiều thời gian cho Tí. Tôi mua cho nó bộ sách lớp 3, thuê gia sư kèm lại từ đầu. Nó học nhanh, đặc biệt giỏi môn Lịch sử. Có lẽ vì trong tim nó đã mang sẵn một câu chuyện lịch sử sống động.

Bà cụ – giờ là “dì Tư” trong nhà – sức khỏe yếu dần, nhưng tinh thần thì an yên. Có ngày, bà cầm bức ảnh người chị đã khuất, vuốt ve như nói chuyện với người xưa:

“Chị yên tâm rồi nghe. Thằng cháu chị đã về đúng nhà.”

Tối nọ, tôi hỏi Tí:

“Làm sao con nhớ ông trong mơ rõ vậy?”

Nó cười hồn nhiên:

“Con không biết… chỉ nhớ rõ mắt ông buồn buồn, mà hiền lắm. Ổng hay ngồi dưới gốc cây, bảo con phải ráng tìm chú có ngón tay cong, ổng nói: ‘Chú đó sẽ thương con như má con từng thương…’”

Tôi lặng người.

Không biết có thứ gọi là “linh hồn” hay “duyên âm” thật không. Nhưng tôi tin rằng, đôi khi, tình yêu của những người đã khuất vẫn dõi theo ta – âm thầm, lặng lẽ – và gửi gắm những điều chưa thể nói hết… vào một giấc mơ.

Vụ người dân nhặt vải từ xe tải gặp n;ạn: Chủ xe được ủng hộ 40 triệu đồng, bị nhiều người gọi điện m;ắng

Chính quyền địa phương đã giao công an xác minh, làm rõ vụ việc.

Liên quan đến sự việc xe tải chở vải bị lật tại địa phận Thanh Oai (Hà Nội), nhiều người dân nhặt vải rơi bên đường gây xôn xao dư luận, mới đây, chị Bùi Thị Lịch (38 tuổi, quê ở xã Yên Phú, tỉnh Phú Thọ) cho biết, sau sự việc, gia đình đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều người.

Trao đổi với báo Dân Việt, chị Lịch thông tin tính đến sáng nay (8/7), chị đã nhận được khoảng 40 triệu đồng tiền hỗ trợ từ các mạnh thường quân. Do đang bị đau tay, sưng tấy sau vụ tai nạn nên sáng nay, chị Lịch phải vào bệnh viện khám, chụp chiếu. Chủ xe dự định chiều nay sẽ ra ngân hàng sao kê chi tiết và gửi thông báo cụ thể cho bà con, mọi người cùng biết. Người phụ nữ gửi lời cảm ơn đến những người đã giúp đỡ mình trong lúc khó khăn, hoạn nạn.

Bên cạnh đó, tối qua, chị cũng nhận được rất nhiều cuộc gọi đến mắng chửi vì “làm ảnh hưởng tới người dân địa phương”. Chị Lịch bộc bạch, sau sự việc nhiều người dân nhặt vải vì tưởng hàng bỏ đi, do quá xót của nên chị chỉ biết “khóc trong lòng”. Tuy nhiên, bản thân chị chia sẻ với báo chí chưa rõ ràng khiến nhiều người lầm tưởng rằng người dân “hôi vải”.

Vụ người dân nhặt vải từ xe tải gặp nạn: Chủ xe được ủng hộ 40 triệu đồng, bị nhiều người gọi điện mắng- Ảnh 1.

Hình ảnh người dân nhặt vải lan truyền trên mạng xã hội làm nổ ra tranh cãi.

Thực sự tôi không có ý gì cả. Trong lúc hoạn nạn của đau con xót. Xe tải gặp nạn, hư hỏng nặng đúng lúc hết bảo hiểm thân vỏ. Chủ gara báo xe tôi sửa hết khoảng 60 triệu đồng nhưng vợ chồng tôi không có tiền nên cũng chưa đặt cọc để sửa“, chị Lịch nói.

Một lãnh đạo UBND xã Dân Hòa cho hay, vụ việc xe tải chở vải bị lật không gây thương vong, không xảy ra va chạm với xe khác, tài xế cũng không trình báo công an. Về thông tin người dân lấy vải từ xe tải gặp nạn, vị lãnh đạo thông tin thời điểm xảy ra sự việc vào gần sáng, nhiều người đi qua khu vực nghĩ rằng số vải ven đường gần nghĩa trang bị bỏ đi nên đã nhặt mang về vì tiếc của. Không có việc người dân lao vào “tranh cướp” vải của người gặp nạn như một số trang mạng xã hội đăng tải.

Hiện UBND xã Dân Hòa đã giao công an xác minh, làm rõ sự việc và sẽ thông tin cụ thể sau.

Vụ người dân nhặt vải từ xe tải gặp nạn: Chủ xe được ủng hộ 40 triệu đồng, bị nhiều người gọi điện mắng- Ảnh 2.

4 tấn vải đổ xuống đường sau khi xe bị lật.

Vụ người dân nhặt vải từ xe tải gặp nạn: Chủ xe được ủng hộ 40 triệu đồng, bị nhiều người gọi điện mắng- Ảnh 3.

Chiếc xe gặp nạn.

Trước đó, trên mạng xã hội lan truyền nhiều hình ảnh người dân xúm vào nhặt vải ở bên đường. Bài đăng trên mạng xã hội cho rằng, chủ xe vải bị lật đưa xe đi sửa, đến khi quay lại để thu vải thì người dân đã nhặt sạch. Thông tin làm nổ ra nhiều ý kiến trái chiều.

Dám dừng xe của tôi ư, những người CSGT này thật thú vị. Cô gái cho phép anh ph/ạt tôi. P//hạt nặng vào nhé, chị không có tiền lẻ đâu….

Trưa hè tháng Bảy, mặt đường như nứt ra dưới cái nắng gắt của thành phố. Những tia nắng phản chiếu trên nắp capo chiếc xe hơi màu đen bóng loáng đậu sát lề đường, tạo thành những vệt chói lóa đến nhức mắt. Một chiếc ô tô dừng giữa ngã tư khi đèn giao thông đã chuyển sang đỏ được hơn bảy giây. Một chiếc mô tô phân khối lớn của Cảnh sát giao thông ngay lập tức lướt tới. Tiếng còi huýt sắc như lát dao mỏng cắt ngang dòng âm thanh ồn ã của phố xá.

Bên trong xe, một người phụ nữ trẻ tháo kính râm, môi nhếch nhẹ đầy thách thức.

“Dám dừng xe của tôi ư, những người CSGT này thật thú vị. Cô gái cho phép anh phạt tôi. Phạt nặng vào nhé, chị không có tiền lẻ đâu.”

Câu nói ấy, tưởng như chỉ là một lời trêu đùa nửa vời, lại trở thành khởi đầu cho một câu chuyện mà chính cô cũng không ngờ đến.

Thanh Mai, 32 tuổi, giám đốc một công ty truyền thông đang lên tại Sài Gòn, là kiểu người phụ nữ không ngại va chạm, sắc sảo và kiêu hãnh. Cuộc đời cô là một chuỗi những nỗ lực tự thân, từ đứa con gái tỉnh lẻ lên thành phố học đại học, đi làm thêm đủ nghề, rồi đứng dậy thành công với hai bàn tay trắng. Từ lâu, Mai tin rằng tiền có thể giải quyết được gần như mọi vấn đề. Kể cả những lần vi phạm giao thông.

Cô không hẳn là người xấu – chỉ là đã quen với việc được ưu tiên, được nể trọng, và đôi khi, được tha thứ chỉ vì địa vị của mình.

Cảnh sát Tuấn – 27 tuổi, quê ở Đồng Tháp – là một người đàn ông điềm tĩnh, ít nói và đặc biệt ghét những người lái xe thiếu ý thức. Anh không quan tâm họ giàu hay nghèo, xinh đẹp hay quyền lực – chỉ quan tâm đến sự an toàn của những người đi đường.

Khi dừng chiếc xe đó lại, anh không hề biết người trong xe là ai. Câu nói của cô gái khiến anh hơi khựng lại – không phải vì bị “đe nẹt”, mà vì cảm giác buồn lạ lùng. Một người phụ nữ có vẻ ngoài thanh lịch, lại có thể nói ra một câu thiếu thiện chí đến vậy.

“Chào chị, tôi yêu cầu chị xuất trình giấy tờ xe và bằng lái. Chị đã vượt đèn đỏ – đây là lỗi nghiêm trọng có thể gây tai nạn cho người khác.”

Mai không thèm nhìn anh. Cô lục ví, đưa giấy tờ kèm theo một câu nữa:

“Phạt luôn cho nhanh. Tôi không có thời gian đứng đây tranh luận đâu.”

Tuấn bình tĩnh nhìn cô một lúc lâu. Anh không nhận tiền. Anh cũng không vội lập biên bản. Thay vào đó, anh nói:

“Chị có thể không quan tâm đến mức phạt. Nhưng tôi cần chị hiểu rõ, hành vi của chị có thể khiến một đứa trẻ bị tai nạn khi qua đường. Tôi gặp nhiều trường hợp như vậy rồi.”

Mai cười khẩy: “Tôi không cần nghe bài thuyết giáo đó. Anh làm đúng trách nhiệm thì cứ phạt, thế thôi.”

Im lặng một lúc, Tuấn nói, vẫn với giọng nhẹ nhàng:

“Nếu chị rảnh một buổi, tôi mời chị đến một ca trực với tôi. Chỉ cần 2 tiếng thôi. Nếu sau đó chị vẫn nghĩ việc vượt đèn đỏ không đáng gì, tôi sẽ xin cơ quan miễn lỗi vi phạm cho chị.”

Mai cười phá lên: “Cảnh sát giờ mời cả người vi phạm đi chơi à?”

“Không phải đi chơi. Là để hiểu. Chị dám không?”

Ánh mắt anh lúc đó không hề khiêu khích, chỉ là một sự thách thức rất yên tĩnh. Lạ thay, lần đầu tiên sau nhiều năm, Mai cảm thấy… mình bị lay động.

Ngày hôm sau, đúng 5 giờ chiều, Thanh Mai có mặt ở trụ sở Đội CSGT quận. Cô không chắc tại sao mình lại đến. Có lẽ là sự tò mò. Cũng có thể là vì sự lạnh lùng bình thản trong mắt anh cảnh sát hôm trước khiến cô không thể dửng dưng như mọi lần.

Tuấn đón cô bằng nụ cười nhẹ. Anh đưa cho cô một áo phản quang, mũ bảo hiểm và cùng cô leo lên mô tô.

“Hôm nay anh định cho tôi xem điều gì? Người vượt đèn đỏ như tôi, nhưng nghèo hơn?” – Mai hỏi, nửa giễu cợt.

Tuấn không trả lời. Họ dừng tại một đoạn đường giao nhau gần trường học, nơi thường xảy ra kẹt xe giờ tan học.

Chỉ trong 15 phút, Mai tận mắt chứng kiến một ông bố hốt hoảng dắt đứa con bị ngã xe vì một chiếc ô tô phóng nhanh vượt đèn. Một bà cụ bị lạc giữa dòng xe cộ hỗn loạn, suýt bị một xe tải húc vào. Và một nhóm học sinh cấp 2 lách vội giữa các làn xe, thiếu chút nữa bị xe ba gác tông trúng.

Tuấn chỉ lặng lẽ hướng dẫn, ngăn cản, giải quyết.

Mai đứng bên, đột nhiên thấy nóng lòng – không phải vì trời – mà vì cảm giác xấu hổ đang len lỏi dần trong ngực.

“Khi chị vượt đèn đỏ hôm qua,” Tuấn nói khi họ nghỉ uống nước sau hơn một tiếng, “chỉ cần có một người chạy theo chị, và một người khác cũng vội – tai nạn xảy ra là chuyện trong tích tắc.”

Mai lặng đi. Không ai từng nói với cô như vậy – không bằng giọng la mắng, cũng không bằng thái độ ghét bỏ. Chỉ là một người đang làm đúng công việc, và muốn ai đó hiểu vì sao họ phải làm vậy.

Cô nhìn anh. Lần đầu tiên, ánh mắt không còn thách thức. “Tôi… không nghĩ mọi chuyện nghiêm trọng vậy,” cô khẽ nói.

Tuấn mỉm cười: “Giờ thì chị biết rồi.”

Chiều hôm đó, Thanh Mai rời khỏi Đội CSGT với một tâm trạng kỳ lạ. Cô không còn thấy bản thân ở vị trí “người trên”, cũng không cảm thấy mình bị “giáo huấn”. Thay vào đó là sự im lặng lạ lẫm – thứ im lặng khi người ta bắt đầu nhìn lại chính mình.

Cô không kể cho ai về buổi chiều hôm ấy. Nhưng hôm sau, thay vì cho tài xế đưa đi làm, cô tự lái xe đến công ty. Dừng đèn đỏ đúng thời gian. Nhìn rõ vạch dừng. Đeo dây an toàn, không dùng điện thoại. Lần đầu tiên sau nhiều năm, cô cảm thấy như mình đang lái một chiếc xe có linh hồn – không phải là công cụ để thể hiện đẳng cấp, mà là phương tiện kết nối giữa cô và những con người khác cùng chia sẻ con đường.

Tối đó, khi ngồi một mình trong căn hộ cao cấp tầng 18, ánh đèn thành phố lấp lánh ngoài cửa kính, Mai bỗng nhớ về một buổi chiều năm cô 13 tuổi. Khi ấy, mẹ cô bị một chiếc xe máy đâm phải khi đang đi bộ qua đường ở quê – vì một người đàn ông phóng nhanh vượt đèn đỏ.

Mẹ gãy chân, phải nghỉ bán hàng gần 3 tháng. Cả nhà thiếu thốn, bữa ăn chỉ còn rau luộc và cơm chan nước mắm. Cô bé Mai khi ấy từng phải xin nghỉ học vài tuần để trông em, nấu cơm, giặt đồ.

Cô đã từng khóc khi nghe bác sĩ nói: “May mà bà ấy né kịp một chút, không là gãy cột sống luôn rồi.”

Vậy mà… cô đã quên. Hoặc cố tình quên. Trong dòng đời bận rộn và những mối quan hệ đầy toan tính, Mai đã biến thành một người phụ nữ lạnh lùng, sống như thể không có quá khứ. Một người nghĩ rằng mình có quyền vượt đèn đỏ – như thể thời gian, luật pháp, và cả người khác… đều là thứ có thể mua được bằng tiền.

Hai tuần sau, Mai gọi điện cho Cảnh sát Tuấn. Không phải để “cảm ơn”, cũng không phải để xin xỏ. Cô nói:

“Tôi muốn tài trợ chương trình tuyên truyền giao thông cho học sinh ở một trường vùng ven. Anh có thể giúp tôi kết nối với nơi cần nhất không?”

Tuấn im lặng vài giây, rồi hỏi: “Chị thật sự muốn làm chứ không phải vì… hình ảnh công ty?”

Mai đáp nhẹ: “Vì hình ảnh của chính tôi. Tôi muốn mình không còn là kiểu người có thể dễ dàng quên một bài học.”

Chưa đầy một tháng sau, chương trình đầu tiên được tổ chức ở một trường cấp 2 tại Hóc Môn. Không có băng rôn rầm rộ, không logo công ty. Mai đến đó trong bộ đồ giản dị, ngồi hàng ghế cuối. Cô nhìn lũ trẻ chăm chú lắng nghe Tuấn chia sẻ về tai nạn, về ý thức, và về những hậu quả có thật. Lúc một em học sinh đứng lên hỏi:

“Nếu ba mẹ con cũng hay vượt đèn đỏ, con phải làm sao ạ?”
Mai thấy sống mũi mình cay xè.

Hôm đó, sau buổi tuyên truyền, Tuấn đến chào Mai. Anh không nói lời cảm ơn sáo rỗng, chỉ hỏi:

“Chị vẫn còn giữ thói quen vượt đèn đỏ không?”

Mai bật cười. “Không. Giờ tôi còn dừng lại trước khi đèn vàng nữa kìa.”

Họ cùng cười. Một lúc sau, Tuấn ngập ngừng:

“Nếu chị rảnh… có thể hôm nào tôi mời chị về quê tôi một chuyến. Có một ngôi trường nhỏ ở đó, các em học sinh chưa từng được dạy bài học về an toàn giao thông một cách tử tế.”

Mai nhìn anh. Trong khoảnh khắc ấy, cô thấy ánh mắt anh không còn là của một người thi hành công vụ – mà là ánh mắt của một người đàn ông tin rằng thay đổi, dù nhỏ nhất, vẫn đáng giá.

Cuộc sống của Mai không thay đổi một cách kịch tính. Cô vẫn điều hành công ty, vẫn dự tiệc, vẫn gặp gỡ đối tác. Nhưng có một điều lặng lẽ thay đổi trong cách cô sống:

  • Cô không còn lái xe ẩu khi vội.

  • Không lớn tiếng với nhân viên.

  • Không coi thường những người lao động ngoài đường phố.

Cô bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm khi làm điều đúng, dù không ai biết. Và bắt đầu hiểu rằng, đôi khi, một lời phạt – nếu đi kèm với sự tử tế – có thể là món quà lớn nhất trong đời một con người.

Một buổi chiều muộn, Mai đang ngồi đọc sách thì nhận được tin nhắn từ Tuấn:

“Chiều mai tôi lên trụ sở trình đề xuất dự án ‘Học Giao Thông – Học Làm Người’. Nếu chị rảnh, cùng đi nhé.”

Mai trả lời chỉ bằng một từ: “Sẵn sàng.”

Ngoài kia, đèn giao thông chuyển xanh. Dòng xe lại tiếp tục trôi, nhưng lần này – cô biết rõ mình đang đi đâu.

“Tử tế không cần phải to tát. Đôi khi, chỉ cần dừng đúng lúc – trước một vạch đèn đỏ – là đã cứu được một cuộc đời.”

Bộ CA làm rõ đ;ộ;ng c;ơ phát tán hình ảnh t;ố Công ty C.P bán thịt heo b/ệ/nh, giờ SỰ THẬT mới sáng tỏ

Đại diện Cục C05 cho biết đang tiếp tục phối hợp với công an các địa phương làm rõ động cơ, mục đích việc phát tán hình ảnh tố Công ty C.P. bán heo bệnh.

Bộ Công an làm rõ động cơ phát tán hình ảnh tố C.P. Việt Nam bán heo bệnh - Ảnh 1.

Hình ảnh heo bị bệnh do ông Ngân đăng lên mạng – Ảnh chụp màn hình

Chiều tối 7-7, tại họp báo 6 tháng đầu năm 2025, Bộ Công an, lãnh đạo Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường (C05) thông tin về quá trình điều tra, xác minh thông tin lan truyền trên mạng xã hội tố Công ty cổ phần chăn nuôi C.P. Việt Nam bán thịt heo bệnh.

Theo lãnh đạo C05, ngày 30-5, sau khi có thông tin tố cáo trên mạng xã hội về hành vi sử dụng heo bệnh, gà bệnh bán ra thị trường, C05 kịp thời chỉ đạo, phối hợp Công an tỉnh Hậu Giang (cũ), Công an tỉnh Sóc Trăng (cũ) kiểm tra.

Căn cứ vào báo cáo của Công an tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, đến nay đã có đủ căn cứ xác định nội dung vụ việc. Căn cứ vào kết quả xác minh, giải quyết tố giác tội phạm của ông Liễu Quý Ngân; căn cứ khoản 2, Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự, cơ quan điều tra Công an tỉnh Sóc Trăng quyết định không khởi tố vụ án.

Bộ Công an làm rõ động cơ phát tán hình ảnh tố C.P. Việt Nam bán heo bệnh - Ảnh 2.

Bộ Công an làm rõ động cơ phát tán hình ảnh tố C.P. Việt Nam bán heo bệnh - Ảnh 3.

Người ‘tố’ Công ty C.P. bán thịt heo bệnh tiếp tục cung cấp hình ảnh cho cơ quan chức năng

 06/06/2025 18:06

“C05 tiếp tục theo dõi, phối hợp chặt chẽ với công an các địa phương để làm rõ động cơ, mục đích của việc phát tán hình ảnh trên mạng xã hội. Nếu phát hiện vi phạm sẽ xử lý nghiêm theo quy định”, lãnh đạo C05 nói.

Trước đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sóc Trăng nhận được tố giác về tội phạm với nội dung: Ngày 30-5, trên mạng xã hội của tài khoản “Jonny Lieu” có đăng tải thông tin về đơn tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm.

Nội dung tố cáo C.P. Việt Nam sử dụng thịt heo bệnh, gà bệnh bốc mùi hôi thối đưa về Freshop Mỹ Xuyên – Sóc Trăng để bán ra thị trường và kèm theo nhiều hình ảnh con heo có dấu hiệu bệnh.

Hồi đầu tháng 6, lãnh đạo Cục Chăn nuôi và Thú y đã có báo cáo bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường kết quả kiểm tra thông tin lan truyền trên mạng xã hội về đơn tố cáo đối với C.P. Việt Nam.

Sau đó, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến đã ký công văn gửi Bộ Công an về việc điều tra và xử lý thông tin lan truyền trên mạng xã hội về việc tố cáo Công ty cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam bán thịt heo bệnh.

Đến hồi đầu tháng 7, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sóc Trăng đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự với tố giác về tội phạm của ông Liễu Quý Ngân có địa chỉ thường trú ở Sóc Trăng.

Lý do theo cơ quan điều tra, do hành vi không có dấu hiệu tội phạm “vi phạm quy định về an toàn thực phẩm” quy định tại khoản 2 Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bất ngờ: Người dân k-iện điện lực đòi bồi thường 90 triệu vì tên người đến thu hộ khác thông báo

Người thu hộ trên thông báo thu tiền điện và thực tế có tên gần như nhau, chỉ khác tên lót nên người đàn ông ở Cà Mau đã đi kiện đòi bồi thường tổn thất tinh thần 90 triệu.

Vừa qua, TAND tỉnh Cà Mau đã xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa nguyên đơn ông TL và bị đơn là Tổng Công ty điện lực miền Nam (gọi tắt là Tổng công ty), người liên quan là Công ty điện lực Cà Mau.

công tơ đo điện kiểu điện tử

Theo đơn khởi kiện, ông L trình bày, ông ký hợp đồng mua bán điện lực sinh hoạt với Tổng công ty từ đầu năm 2015. Công ty điện lực Cà Mau được ủy quyền thu tiền điện, nhân viên của một đại lý thu hộ.

Ngày 20-4-2022, trong thông báo thu tiền điện thì nhân viên thu hộ là ông HVK. Nhưng người đến nhà ông thu tiền lại là ông HVK (tên lót cũng bắt đầu bằng chữ V nhưng ở thông báo là Việt, còn người thực tế là Văn – PV).

Ông nghi ngờ nhân viên này không biết có phải do Công ty điện lực Cà Mau cử đến hay không nên ông không đóng tiền điện kỳ 1, tháng 4 năm 2022.

Hôm sau, ông gọi điện cho tổng đài của Tổng công ty để xác minh nhân viên thu hộ tên như trong thông báo có phải là nhân viên thu hộ tiền điện hay không, nhân viên tổng đài cũng không xác định được. Sau đó một tháng ông khởi kiện ra TAND TP Cà Mau yêu cầu Tổng công ty bồi thường thiệt hại.

Quá trình giải quyết, Phó Giám đốc Công ty điện lực Cà Mau cung cấp hai quyết định thể hiện hai tên nêu trên là cùng một người, tên đúng có chữ lót là Văn. Vị này thay mặt Tổng công ty xin lỗi ông và cho rằng chưa kịp điều chỉnh tên đúng của nhân viên thu hộ trên thông báo. Việc không thông báo thay đổi người đến thu tiền điện là có sự nhầm lẫn.

Ông không đồng ý nhận lời xin lỗi vì không có văn bản ủy quyền của Tổng công ty. Sau đó, ông rút đơn khởi kiện để bổ sung yêu cầu bồi thường…

Nay ông khởi kiện, buộc Tổng công ty xin lỗi ông vì việc gây nhầm lẫn trên; bồi thường tổn thất tinh thần cho ông do sức khỏe bị xâm hại với số tiền 90 triệu (50 tháng lương cơ sở) do Tổng công ty thay đổi người thu tiền điện mà không báo trước cho ông dẫn đến việc ông không thanh toán tiền điện kỳ 1 tháng 4-2022 và ông lo lắng sẽ bị cắt điện sử dụng.

Xử sơ thẩm, TAND TP Cà Mau bác toàn bộ yêu cầu của ông L, sau đó ông này kháng cáo toàn bộ.

Tòa phúc thẩm nhận định, trong hợp đồng mua bán điện không quy định Tổng công ty phải có trách nhiệm thông báo thay đổi người thu tiền điện cho ông L. Do đó, ông L cho rằng Tổng công ty tự ý thay đổi người thu hộ tiền điện mà không báo trước cho ông, gây nhầm lẫn là do ông tự ngộ nhận, không phải lỗi của Tổng công ty.

Về việc bồi thường 90 triệu, tòa cho rằng tháng 9-2022, điện lực Cà Mau ban hành thông báo ngừng cung cấp điện tháng 4-5-6-7-8-9 với số tiền hơn 8,3 triệu đối với ông L. Cuối tháng 9-2022, ông HVK tiếp tục đến đưa thông báo ngừng cung cấp điện, cùng ngày ông L đến Điện lực TP Cà Mau nộp số tiền hơn 8,3 triệu. Như vậy, ông L đã thực hiện xong nghĩa vụ của bên mua điện, nộp tiền điện đầy đủ nên không phát sinh thiệt hại.

Như đã phân tích, việc thay đổi người thu hộ tiền điện không phải lỗi của Tổng công ty, không có hành vi trái pháp luật và không gây thiệt hại cho ông L về sức khỏe, tổn thất tinh thần. Vì vậy tòa sơ thẩm bác yêu cầu của ông L là có căn cứ. Ông L kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ gì mới nên không được chấp nhận.

Giúp việc bị đuổi khỏi nhà chỉ vì nghi ăn cắp chiếc đồng hồ Rolex, ai mà có ngờ bà lại cứu chủ nhà….

“Chiếc đồng hồ Rolex biến mất vào một buổi sáng thứ Hai, khi nhà chỉ có một người giúp việc lớn tuổi và cậu con trai đang ngủ. Không ai chứng kiến, không có camera trong phòng. Và cũng chẳng ai ngờ rằng, việc đuổi một người vô tội đã mở ra một chuỗi sự kiện khiến cả gia đình phải cúi đầu xin lỗi…”

Gia đình ông Khánh ở quận 2 sống khá sung túc. Ông là giám đốc công ty bất động sản, còn bà Thủy – vợ ông – ở nhà nội trợ và quản lý tài chính gia đình. Họ có một cậu con trai học cấp 2 tên là Minh. Gia đình thuê bà Tám – một người giúp việc gần 60 tuổi – đã làm cho họ hơn 3 năm.

Bà Tám hiền lành, ít nói, làm việc chăm chỉ và chưa từng để gia đình phàn nàn điều gì. Dù tuổi đã lớn, bà luôn dậy sớm nấu ăn, lau dọn nhà cửa, giặt giũ, chăm sóc Minh những khi bố mẹ đi vắng. Cả khu dân cư ai cũng quý bà, thường gọi là “bà Tám quê nhưng thiệt thà”.

Một sáng thứ Hai, ông Khánh phát hiện chiếc đồng hồ Rolex trị giá gần 300 triệu – quà sinh nhật vợ tặng năm ngoái – biến mất khỏi ngăn kéo phòng làm việc. Ngăn kéo không khóa. Ông nhớ rõ đã tháo đồng hồ ra chiều hôm qua khi về nhà, để ngay tại đó.

Bà Thủy tái mặt, hỏi từng người. Minh không biết gì – nó còn đang vùi đầu vào game. Trong nhà, ngoài bà Tám ra, không ai khác có lý do để vào phòng làm việc lúc sáng. Camera ngoài hành lang không quay vào phòng. Tất cả dồn ánh mắt về bà Tám.

– “Bà có vào phòng tôi sáng nay không?” – ông Khánh hỏi.

– “Dạ có, tôi lau dọn sơ qua như mọi khi rồi ra liền.”

– “Có thấy đồng hồ trên bàn không?”

– “Dạ không chú ơi. Tôi đâu có để ý, cũng không đụng gì.”

Sự im lặng nặng nề bao trùm. Bà Thủy bắt đầu nổi cáu, gọi bà Tám là “kẻ tham lam”, “ăn cháo đá bát”. Bà Tám cố giải thích, giọng run rẩy: “Tôi chưa bao giờ lấy gì của ai. Nhà mình tin tôi ba năm nay, sao lại nghi oan vậy?”

Nhưng sự mất mát của một tài sản giá trị đã khiến lòng tin tan biến. Ông Khánh không gọi công an, nhưng nói thẳng: “Tôi không muốn làm lớn chuyện, nhưng bà không còn ở lại được nữa.”

Không khóc, không van xin, bà Tám chỉ nhẹ nhàng gật đầu, thu dọn đồ đạc trong im lặng. Trước khi bước ra cửa, bà chỉ nói một câu:

– “Tôi không lấy, và một ngày chú sẽ biết điều đó.”

Những tháng ngày sau:

Gia đình thuê người giúp việc mới, trẻ hơn, nhanh nhẹn hơn, nhưng chẳng ai cảm thấy dễ chịu như với bà Tám. Người mới hay lén dùng điện thoại, làm việc không kỹ. Minh thậm chí nhớ bà Tám, dù cậu không dám nói ra – vì bố mẹ luôn tỏ ra “khó chịu” mỗi khi nhắc tới bà.

Hai tháng trôi qua. Chiếc đồng hồ vẫn không tìm ra. Câu chuyện tưởng chừng đã rơi vào quên lãng… cho đến một đêm.

Khi ấy, bà Thủy đang ở nhà cùng con, còn ông Khánh đi công tác ngoài tỉnh. Khoảng gần nửa đêm, Minh đang ngủ thì bị hoảng loạn vì tiếng chó sủa và tiếng kính vỡ ngoài sân. Có kẻ đột nhập!

Bà Thủy vội chạy ra ban công tầng hai, thì thấy một bóng đen trèo qua tường. Bà hét lên, nhưng chân tay run lẩy bẩy, chưa kịp gọi công an thì cửa chính đã bị mở tung.

May mắn thay, chỉ 30 giây sau, có một bóng người nữa lao vào – là bà Tám.

Bà đang đi ngang khu nhà để gửi bánh cho người quen thì nghe tiếng kính vỡ và chó sủa – bà nhận ra ngay tiếng con chó nhà ông Khánh. Bà chạy lại, thấy có kẻ đang trèo qua ban công – liền hô hoán và gọi bảo vệ.

Tên trộm giật mình, bị bà Tám cùng bảo vệ dân phố đuổi theo và bắt được ngay đầu hẻm. Hắn khai nhận định đột nhập để trộm tài sản, vì biết rõ nhà có của cải, và đêm đó chỉ có hai mẹ con ở nhà.

Khi công an đến, bà Tám mới rụt rè đứng ở ngoài. Bà Thủy sững sờ, nước mắt rơi. Bà không tin vào mắt mình – người mà bà từng đuổi không chút cảm tình lại là người đã cứu mẹ con bà khỏi một vụ trộm có thể rất nguy hiểm.

Ngày hôm sau, ông Khánh về nhà. Khi nghe kể lại, ông lặng người. Ông đến gặp bà Tám, cúi đầu xin lỗi:

– “Tôi đã sai… Rất sai…”

Bà Tám chỉ cười hiền:
– “Không ai muốn bị nghi oan. Nhưng tôi biết, cái gì thật thì trước sau gì cũng sáng tỏ.”

Sau khi tìm lại được chiếc đồng hồ Rolex trong ngăn tủ tài liệu, ông Khánh ngồi lặng đi suốt cả buổi tối. Ông cầm chiếc đồng hồ lên, ngắm nghía như vật chứng sống cho một sai lầm lớn mà ông đã gây ra. Không phải là mất mát tài sản, mà là mất mát lòng tin – vào một con người từng trung thành, tận tụy và vô cùng tử tế.

Ông nhớ lại ánh mắt của bà Tám khi bước ra khỏi cánh cửa căn nhà hôm đó – không oán trách, không tức giận – chỉ có một sự buồn bã trầm mặc của người đã bị tổn thương quá sâu sắc.

Sáng hôm sau, ông và bà Thủy cùng Minh đến nhà trọ nhỏ nơi bà Tám đang ở. Căn nhà cấp 4 cũ kỹ nằm trong một hẻm nhỏ ở quận Bình Thạnh. Bà Tám đang nấu cơm thì nghe tiếng gọi ngoài cửa.

– “Bà Tám… là con Minh đây…”

Bà Tám bước ra. Vẫn nụ cười hiền, vẫn đôi mắt nhăn nheo vì tuổi tác. Nhưng có gì đó đã khác – ánh mắt bà không còn tin tưởng như trước nữa.

Ông Khánh tiến lên, cúi đầu:
– “Bà Tám… tôi thay mặt cả nhà xin lỗi bà. Chúng tôi đã nghi oan bà… Đồng hồ tôi tìm được rồi. Bà không sai. Chúng tôi sai – rất sai.”

Bà Tám không nói gì trong một lúc. Cuối cùng, bà mời cả nhà vào uống nước. Không trách móc, không chì chiết. Bà chỉ kể chuyện mấy tháng qua, đi phụ bán cơm cho người quen, tối về tự chăm sóc mình, đôi khi cũng nhớ cháu Minh lắm nhưng không dám tới gần.

Minh bật khóc. Cậu ôm chầm lấy bà Tám, nước mắt lăn dài:

– “Con xin lỗi bà… Con nhớ bà lắm… Hồi đó con cũng nghi ngờ bà… Con ngu quá!”

Bà Tám chỉ vỗ nhẹ lưng Minh, dịu dàng như mọi khi:
– “Không sao đâu con. Lúc đó ai cũng lo sợ, ai cũng có lý do để nghi ngờ. Nhưng giờ con đến xin lỗi, vậy là bà vui rồi.”

Một sự trở về… không dễ dàng

Ông Khánh muốn mời bà Tám quay lại làm giúp việc như trước. Nhưng bà từ chối. Bà nói không phải vì giận, mà vì lòng bà có vết xước. Ở tuổi này, điều bà cần không chỉ là công việc – mà là sự trân trọng.

– “Tôi sống đủ rồi. Không thiếu ăn, thiếu mặc. Chỉ thiếu một chỗ người ta tin mình.”

Gia đình trở về trong im lặng. Bữa cơm tối hôm đó, không ai nói gì nhiều, nhưng ai cũng biết, gia đình ấy đã mất đi một điều gì quý giá không dễ gì lấy lại được.

Một tuần sau, bà Tám nhận được một lá thư tay – viết bằng nét chữ còn nguệch ngoạc – của Minh. Cậu xin bà tha thứ lần nữa, kể rằng người giúp việc mới đã nghỉ, nhà lại lạnh lẽo. Cậu không ăn được cơm người khác nấu. Không ai nhớ sở thích nhỏ của cậu như bà.

Lá thư kết bằng dòng chữ:

“Nếu bà không thể về làm lại, thì ít nhất… xin bà cho con được gặp bà mỗi tuần. Dù chỉ để ăn một bữa cơm.”

Lá thư khiến bà Tám lặng người. Bà gói vài món ăn đơn giản, hôm sau ghé nhà Minh, chỉ để “đưa cho con một ít canh chua cá lóc”. Rồi dần dần, bà trở lại – không phải với tư cách người giúp việc – mà là một người thân của gia đình.

Chữa lành và thay đổi

Từ ngày bà Tám quay lại, không khí trong nhà ấm áp hơn hẳn. Không ai còn gọi bà là “giúp việc” nữa. Bà Thủy dạy Minh gọi bà là “bà Tám” như người trong nhà, chứ không phải là “dì” như trước.

Ông Khánh, người từng lạnh lùng và khô khan, giờ hay pha trà mời bà Tám, kể chuyện công ty, hỏi thăm sức khỏe. Bà Tám nói đùa:

– “Hồi xưa chú chỉ biết hỏi tôi lau nhà chưa xong thôi hà!”

Cả nhà bật cười. Sự giận hờn ngày nào như chưa từng tồn tại – nhưng ký ức thì còn đó, như một bài học sâu sắc.

Ông Khánh bắt đầu tham gia các hoạt động thiện nguyện – một việc mà trước đây ông từng cho là “rảnh rỗi vô ích”. Ông và bà Thủy tổ chức những buổi nấu ăn cho người vô gia cư, và chính bà Tám là người khởi xướng điều đó.

Cuối cùng, một ngày nọ…

Gia đình có dịp tổ chức tiệc sinh nhật lần thứ 60 cho bà Tám. Họ mời những người hàng xóm cũ, đồng nghiệp của ông Khánh, bạn bè của Minh. Trong buổi tiệc nhỏ nhưng đầm ấm ấy, bà Tám nói một câu khiến ai nấy lặng đi:

– “Có lần tôi nghĩ mình chẳng còn giá trị gì khi bị nghi oan. Nhưng hóa ra… chính vết thương đó lại làm người khác thay đổi – và cũng làm tôi thấy mình vẫn còn có ích.”

Chiếc đồng hồ Rolex, thứ từng là trung tâm của một trận nghi kỵ, giờ nằm lặng lẽ trong hộp kính. Không ai còn nhắc tới nó nữa – vì cả nhà biết: giá trị lớn nhất không nằm ở vật chất, mà ở những con người bên cạnh ta, những mối quan hệ mà nếu mất đi rồi thì tiền cũng không mua lại được.

Mẹ chồng rủ bạn đi ăn rồi gọi con dâu tới thanh toán – ai ngờ con dâu cao tay khiến bà ngã ngửa…

“Con tới nhà hàng đi, mẹ đang ăn với bạn, con tới thanh toán giúp mẹ nhé.”
Nghe mẹ chồng nói thế qua điện thoại, Hương đứng sững giữa hành lang văn phòng. Cô đang ngập đầu trong việc, deadline dí sát lưng. Nhưng điều khiến cô nghẹn lại không phải là việc bị điều đi bất thình lình, mà là cách bà nói như một mệnh lệnh, không một lời cảm ơn hay đề nghị. Cứ như việc con dâu đi trả tiền cho bữa tiệc bạn bè của mẹ chồng là điều hiển nhiên.

Hương – 29 tuổi, làm nhân sự tại một công ty dược phẩm – chưa từng có mâu thuẫn gay gắt gì với mẹ chồng suốt gần hai năm sống chung. Nhưng mối quan hệ ấy chưa từng thật sự hòa thuận. Mẹ chồng cô – bà Thanh – là mẫu người “truyền thống giả tạo”, ngoài mặt dịu dàng, hay khen con dâu với hàng xóm, nhưng trong nhà thì hay nói xéo, kiểm soát từng chút, thậm chí bới móc cả việc nhỏ nhặt như quần áo Hương giặt chưa thơm hay món ăn cô nấu không giống “mùi vị miền Trung” của bà.

Dạo gần đây, bà Thanh hay tụ tập với nhóm bạn trong hội hưu trí. Các bà rủ nhau đi ăn nhà hàng, thỉnh thoảng còn đăng hình “ăn sang” để khoe với bạn bè cũ. Bà thường nói với Hương và chồng rằng:

“Bọn trẻ tụi bây đi ăn hoài, mẹ đi có mấy lần mà còn phải ngó chừng chi phí. Giờ mẹ cũng có bạn, cũng cần tận hưởng tuổi già chứ.”

Thế nhưng, vấn đề là tiền chi tiêu đó bà không hề bỏ ra – mà khéo léo “đẩy” sang con cái. Đầu tiên là chồng Hương, nhưng anh bận rộn và thẳng thắn: “Mẹ thích đi thì mẹ chủ động nhé, tụi con đâu có rảnh chạy theo thanh toán mỗi tuần.” Thế là bà chuyển hướng sang Hương – người ít cãi lời, lại hay cả nể.

Buổi trưa hôm ấy, đúng vào lúc Hương đang chuẩn bị thuyết trình cho một buổi họp quan trọng, điện thoại reo. Mẹ chồng không vòng vo:

“Con tới nhà hàng T., bàn số 5 nhé. Mẹ đang ăn với cô Nga, cô Hoa, cô Liên, con chắc biết đó. Tụi mẹ xong sớm, con tới thanh toán giúp mẹ luôn nha.”

Không một lời hỏi han, không ngỏ ý nhờ. Chỉ là thông báo.

Hương khựng lại. Cô chưa kịp phản ứng, mẹ chồng đã cúp máy. Hơi thở cô trở nên gấp gáp, sự mệt mỏi của bao nhiêu ngày bị “dắt mũi” dồn lên ngực.

Trong đầu Hương lúc đó không chỉ là giận, mà là tỉnh táo. Cô đã nhún nhường đủ rồi. Giờ là lúc để “trả bài”.

Cuộc gặp gỡ không như mong đợi

Một tiếng sau, khi buổi họp kết thúc, Hương bước vào nhà hàng T. – một nhà hàng kiểu Âu nằm trong khu đô thị sang trọng. Cô ăn mặc chỉn chu, áo sơ mi trắng và chân váy dài, không vội vã như mọi khi, mà bước đi đầy tự tin.

Ở bàn số 5, bà Thanh đang cười đon đả, tay cầm ly vang đỏ, miệng không ngừng kể chuyện. Ba người bạn – trang điểm kỹ lưỡng, ăn mặc sang chảnh – cũng đang vui vẻ. Đĩa thức ăn gần như trống không, vài chai rượu vang đặt trên bàn.

Bà Thanh thấy Hương bước vào, gương mặt hơi sượng một chút – rồi lập tức lấy lại phong độ:

“Ồ, con tới rồi à! Mẹ gọi vậy có gấp không? Thông cảm nghen, cô Hoa hôm nay mừng sinh nhật, tụi mẹ ăn uống một bữa linh đình.”

Một cô bạn lên tiếng:

“May có con dâu tâm lý quá, chứ tụi này còn đùa nhau ‘ai trả đây?’, ai ngờ có người tới lo rồi!”

Tiếng cười khanh khách vang lên, nhưng Hương chỉ cười nhẹ.

“Dạ, con tới không phải để thanh toán đâu mẹ ạ. Con tới để đưa cho mẹ cái này.”

Hương lấy từ túi xách ra một phong bì nhỏ, bên trong là một thẻ tín dụng phụ mang tên mẹ chồng – thứ mà cô đã đăng ký từ tuần trước mà không nói cho ai. Cô đặt lên bàn, giọng nhẹ nhàng nhưng rõ ràng:

“Thẻ này liên kết trực tiếp với tài khoản phụ con nạp tiền sẵn cho mẹ dùng mỗi tháng 3 triệu. Mẹ muốn ăn uống cùng bạn bè cứ dùng thoải mái. Nhưng hôm nay thì… con xin phép về công ty. Con không tiện ở lại.”

Không khí như đóng băng vài giây. Bà Thanh mở lớn mắt, nhưng chưa kịp nói gì thì cô bạn bên cạnh đã nói nhanh:

“Ui, thế thì tiện quá còn gì! Thẻ xịn nữa chứ! Có con dâu tâm lý ghê chưa!”

Bà Thanh cười méo mó. Hương cúi chào lịch sự rồi quay lưng đi, để lại sau lưng ánh mắt nửa giận nửa bất ngờ của mẹ chồng.

Sau buổi trưa hôm đó, không ai nói thêm gì. Hương về nhà như bình thường, nấu cơm, dọn dẹp, không nhắc lại chuyện nhà hàng. Nhưng cô biết bà Thanh đang “nóng máu”. Mấy hôm sau, bà liên tục chọc ghẹo:

“Con dâu giờ hiện đại ghê. Quản lý cả ví tiền của mẹ chồng nữa cơ đấy.”

Hương chỉ cười:

“Dạ, con chỉ hỗ trợ mẹ chủ động tài chính, không phiền đến con nhiều thôi ạ.”

Tối hôm ấy, khi chỉ còn hai vợ chồng trong phòng, Hương kể cho chồng nghe mọi chuyện. Anh thở dài:

“Anh xin lỗi, lẽ ra phải nói mẹ sớm. Nhưng anh cũng biết tính mẹ… Nói thẳng thì bà giận. May là em xử lý khéo.”

Hương gật đầu. Đây không phải lần đầu cô phải đứng lên bảo vệ giới hạn của mình, nhưng là lần đầu cô làm điều đó trước mặt bạn bè mẹ chồng – những người luôn nghĩ cô là “con dâu ngoan ngoãn, dễ sai bảo.”

Sau lần đó, bà Thanh không còn gọi Hương đến “trả tiền hộ” nữa. Thẻ tín dụng cô đưa vẫn được bà dùng, dù ban đầu tỏ vẻ không vui. Dần dần, bà bắt đầu ý thức hơn việc chi tiêu – vì biết Hương sẽ không im lặng như trước.

Một lần tình cờ, Hương nghe bà gọi điện cho cô bạn:

“Thôi, nay mình ăn nhẹ thôi, con dâu mình nó nạp tiền có hạn… Nó mà biết mình ăn rượu vang nữa chắc nó cắt luôn thẻ!”

Cô mỉm cười trong bếp. Không phải vì thắng, mà vì cuối cùng cô đã dạy mẹ chồng hiểu một điều: con dâu không phải là người trả nợ vô điều kiện cho những cuộc chơi vô lý.

Hương không cần to tiếng, không cần giận dữ, nhưng đã dạy một bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc. Mẹ chồng cô, dù có tự ái, vẫn phải công nhận: con dâu này không dễ bị dắt mũi như trước. Và cũng từ đó, giới hạn được thiết lập – vững chãi và rõ ràng.

Từ ngày 1/7, giáo viên có danh hiệu này sẽ nhận thưởng hơn 29 triệu đồng – gấp 12,5 lần lương cơ sở

Từ ngày 1/7, giáo viên có danh hiệu này sẽ nhận thưởng hơn 29 triệu đồng – gấp 12,5 lần lương cơ sở

Theo Đời sống & pháp luật, từ ngày 1/7/2025, giáo viên được phong tặng danh hiệu “Nhà giáo ưu tú” sẽ nhận khoản tiền thưởng tương đương 9 lần mức lương cơ sở, theo quy định tại Nghị định 152/2025/NĐ-CP. Đối với danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, mức thưởng quy định là 12,5 lần lương cơ sở.

Theo Nghị định 73/2024/NĐ-CP thì mức lương cơ sở hiện nay là 2.340.000 đồng/tháng. Như vậy, mức thưởng mà giáo viên nhận được cho vị trí “Nhà giáo ưu tú” và “Nhà giáo nhân dân” lần lượt là 21.060.000 đồng và 29.250.000 đồng

Theo Nghị định 73/2024/NĐ-CP thì mức lương cơ sở hiện nay là 2.340.000 đồng/tháng.

Chế độ phụ cấp thâm niên với nhà giáo

Theo Báo Lao Động, kết luận 83-KL/TW năm 2024, Bộ Chính trị đã giao Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành đánh giá hiệu quả thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2018 và đề xuất việc thực hiện 5 bảng lương và 9 chế độ phụ cấp mới trong khu vực công. Việc áp dụng hệ thống bảng lương mới sẽ được xem xét triển khai sau năm 2026.

Nghị quyết 27-NQ/TW nêu rõ khi thực hiện chế độ tiền lương mới, sẽ tiến hành sắp xếp lại các chế độ phụ cấp hiện hành, trong đó bãi bỏ phụ cấp thâm niên nghề (trừ quân đội, công an, cơ yếu). Tuy nhiên, theo quy định chuyển tiếp tại khoản 2 Điều 42 của Luật Nhà giáo 2025 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026), nhà giáo vẫn tiếp tục được hưởng phụ cấp thâm niên đến khi cải cách chính sách tiền lương được triển khai đầy đủ.

Chế độ phụ cấp thâm niên nhà giáo được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 77/2021/NĐ-CP ngày 1/8/2021 của Chính phủ.

Theo Báo Điện tử Chính phủ, nhà giáo tham gia giảng dạy, giáo dục có đóng BHXH bắt buộc đủ 5 năm (60 tháng) được tính hưởng phụ cấp thâm niên bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

Đã có kết quả kiểm nghiệm bún tươi mua tại chợ bị chuyển từ màu trắng sang đỏ, từ nay nhịn luôn món bú-n luôn nhé, quá kinhkhung

 Sau phản ánh bún mua tại chợ Hòa Châu có dấu hiệu đổi màu sang đỏ, UBND phường Hoà Xuân – Đà Nẵng đã lấy mẫu để kiểm tra

Tối 7-7, đại diện UBND phường Hòa Xuân (TP Đà Nẵng) cho biết đã thành lập đoàn kiểm tra liên ngành để xác minh vụ việc người dân phản ánh bún đổi màu đỏ bất thường.

Cụ thể, sáng cùng ngày, ngay sau khi tiếp nhận phản ánh, UBND phường Hòa Xuân đã khẩn trương thành lập đoàn kiểm tra gồm công an, bộ phận y tế, cán bộ thôn và các đơn vị liên quan đến nhà bà L. (người phản ánh) để xác minh sự việc. Tại hiện trường, đoàn ghi nhận phần bún còn lại có hiện tượng đổi màu như phản ánh.

Đà Nẵng kiểm tra vụ bún đổi màu đỏ bất thường tại chợ hòa châu - Ảnh 1.

Sợi bún chuyển màu đã được cơ quan chức năng phường Hoà Xuân lấy mẫu, mang đi kiểm tra

Qua xác minh ban đầu, bà L. mua bún từ một người bán lẻ tại khu vực phía trước chợ Hòa Châu cũ. Người bán này nhập hàng từ một cơ sở sản xuất bún trên địa bàn phường Hòa Xuân. Theo đại diện phường, cơ sở nói trên sản xuất khoảng 200 – 300 kg bún mỗi ngày, phân phối cho nhiều tiểu thương trong khu vực.

Qua kiểm tra giấy tờ, cơ sở sản xuất có đầy đủ thủ tục pháp lý và đảm bảo điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm.

Đoàn kiểm tra đã lấy mẫu bún tại nhà bà L. và tại cơ sở sản xuất để gửi đến Trung tâm Kiểm nghiệm (số 1 Phan Thanh, TP Đà Nẵng) nhằm kiểm tra các chỉ tiêu an toàn thực phẩm và xác định nguyên nhân gây đổi màu. Mẫu bún được lưu trữ và sẽ được gửi đi kiểm nghiệm trong ngày 8-7.

Bên cạnh đó, chủ cơ sở sản xuất cũng chủ động mang mẫu gạo dùng để làm bún đi kiểm tra, phối hợp với cơ quan chức năng làm rõ nguyên nhân.

Cán bộ phụ trách lĩnh vực văn hóa – xã hội và an toàn thực phẩm của UBND phường Hòa Xuân cho biết qua kiểm tra thực tế, mẫu bún không có mùi lạ, kết cấu bình thường nhưng màu sắc chuyển sang đỏ nhẹ, gây lo ngại cho người tiêu dùng.

“Chúng tôi đang phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan để làm rõ vụ việc và sẽ kịp thời thông tin đến người dân” – vị cán bộ cho biết.

Trước đó, như Báo Người Lao Động đã thông tin, bà L. (trú tại phường Hòa Xuân) cho biết đã mua bún tại chợ Hòa Châu vào khoảng 9 giờ ngày 6-7 để dùng cho bữa trưa. Gia đình gồm 5 người, trong đó có một cháu nhỏ 2 tuổi, đã sử dụng phần bún này.

Đến tối cùng ngày, khi mang phần bún còn thừa cho con trai ăn, bà phát hiện sợi bún có dấu hiệu đổi màu, từ trắng sang hơi đỏ. Phần bún được bảo quản trong rổ, không để trong tủ lạnh.

Người Đàn Ông đi trên cao tốc được 30 phút thì mới phát hiện ra Có Cậu Bé Nấp Sau Ghế, vội vàng xuống mở cốp thì bẽ bàng khi trên tay cậu bé đang cầm…

Trên cao tốc Long Thành – Dầu Giây, giữa trưa nắng cháy, một người đàn ông trung niên chợt phanh gấp giữa làn đường khẩn cấp. Mặt ông tái đi như không còn giọt máu khi nghe tiếng động lạ từ sau lưng. Và khi mở cốp xe, ông chết lặng: cậu bé ấy, người mà ông không hề hay biết đã ở đó suốt nửa tiếng đồng hồ, đang cầm trên tay một tấm ảnh cũ nhàu nát…

Nguyễn Văn Tâm – 45 tuổi, là một kỹ sư xây dựng, vừa nhận chuyển công tác từ Biên Hòa về TP.HCM. Ông sống một mình đã gần 10 năm kể từ ngày ly hôn. Cuộc hôn nhân ấy tan vỡ không phải vì hết yêu, mà vì nghèo đói, mâu thuẫn không lối thoát, và một sai lầm khiến ông luôn day dứt – sự vắng mặt trong những ngày tháng quan trọng nhất của con trai.

Sáng hôm ấy, ông thu xếp đồ đạc, chất hành lý vào xe bán tải cũ. Chuyến đi này đánh dấu một khởi đầu mới – một vị trí tốt hơn, thu nhập cao hơn. Ông quyết định sẽ cố gắng làm lại cuộc đời, dù đã quá muộn để bù đắp.

Chiếc xe rời khỏi khu dân cư ở Biên Hòa lúc 10 giờ sáng. Cao tốc khá thông thoáng. Tâm bật một bản nhạc Bolero yêu thích, rít một hơi thuốc rồi thả hồn theo dòng xe. Mọi thứ tưởng chừng suôn sẻ.

Thế nhưng, khoảng 30 phút sau khi vào cao tốc, ông giật mình vì nghe tiếng “soạt… soạt” nhỏ từ phía sau. Ông liếc gương chiếu hậu – chẳng thấy gì bất thường. Rồi một tiếng ho nhẹ vang lên. Ông tái mặt.

“Có ai đó trong xe?” – Tâm thì thầm, tim đập mạnh. Ông lập tức tấp vào làn dừng khẩn cấp, bật đèn hazard và bước xuống, tay run run mở cửa phía sau. Không có ai.

Chợt, ông nghe tiếng động từ cốp xe phía sau. Dù bán tải có thùng kín, nhưng ông chưa từng nghĩ có ai lọt vào được. Tay run lên vì hoảng, ông mở cốp. Và trước mắt ông là một cảnh tượng kỳ lạ – một cậu bé chừng 10 tuổi, gầy gò, mặt lem nhem, ôm balo cũ kỹ, đang nhìn ông bằng ánh mắt sợ hãi xen lẫn quyết đoán.

– Cháu… cháu không ăn cắp gì đâu! – Cậu bé thốt lên, lùi lại trong góc thùng xe.

Tâm sững sờ vài giây. Trái tim ông quặn lên.

– Cháu… là ai? Sao cháu lại ở đây?

Cậu bé không trả lời ngay, chỉ rút trong túi ra một tấm ảnh. Đó là một người đàn ông trẻ, tay bế một đứa bé mới sinh – bức ảnh rõ ràng đã bạc màu, nhưng nét mặt trong ảnh… giống Tâm đến kỳ lạ.

– Mẹ cháu nói… chú là ba cháu.

Một cơn gió nóng phả qua mặt Tâm, mà ông cảm giác như lạnh băng. Đôi chân gần như khuỵu xuống. Ông không dám tin.

– Mẹ cháu tên gì?

– Mẹ tên Trinh… Nguyễn Thị Trinh. Mẹ mất rồi. Trước khi mất, mẹ nói nếu một ngày cháu không ai nuôi, hãy tìm về cha. Mẹ nói chú làm kỹ sư, tên là Tâm, ở Biên Hòa. Cháu hỏi bác tổ trưởng ở khu trọ, bác ấy chỉ cho cháu nhà chú.

Ông nhớ Trinh – người phụ nữ hiền lành, sống cùng ông thời trẻ. Họ từng có thời gian yêu nhau cháy bỏng, nhưng khi ông rơi vào khủng hoảng nợ nần và thất nghiệp, Trinh buộc phải chia tay. Ông không biết cô mang thai, càng không biết mình có một đứa con.

– Sao cháu lại… leo vào xe chú?

– Cháu không dám gặp chú lúc đó. Cháu sợ chú không nhận. Nhưng thấy chú chất đồ vào xe, cháu lẻn vào thùng rồi nấp. Cháu chỉ muốn đi theo chú… nếu chú là ba cháu thật.

Tâm đứng chết lặng. Bao năm qua, ông sống đơn độc, cay đắng vì quá khứ, chưa từng nghĩ sẽ có ngày một cậu bé gọi mình là cha. Càng không thể tin, cuộc đời lại bày ra trước mặt ông một sự thật quá muộn màng.

Ông cúi xuống, quỳ gối trước cậu bé, nhìn sâu vào đôi mắt ngây thơ ấy.

– Tên cháu là gì?

– Mẹ gọi cháu là Bình.

Tâm đưa tay ra, run rẩy.

– Lên xe với ba. Mình nói chuyện từ đầu.

Cậu bé mím môi, rồi chầm chậm nắm lấy bàn tay người đàn ông.

Chiếc xe tiếp tục lăn bánh trên cao tốc, nhưng tâm trí của Nguyễn Văn Tâm thì dậy sóng hơn bao giờ hết. Người đàn ông 45 tuổi, cả đời tưởng mình cô độc, bỗng chốc có một cậu con trai ngồi bên cạnh – không giấy tờ, không chứng cứ, chỉ có một tấm ảnh và một lời kể.

Bình ngồi sát cửa sổ, tay vẫn ôm chặt chiếc ba lô cũ sờn. Cậu bé không hỏi gì, không đòi gì. Cậu chỉ im lặng nhìn đường, ánh mắt vừa mừng rỡ vừa lo lắng. Tâm thì khác – ông không thể ngừng suy nghĩ. Một phần trong ông khao khát tin cậu bé, phần khác lại gào lên những câu hỏi thực tế.

“Nhỡ không phải con mình thì sao? Nhỡ đây là trò lừa đảo?”

Thế nhưng, mỗi lần nhìn thấy ánh mắt ấy – đôi mắt rất giống ông thời còn trẻ – những nghi ngờ ấy lại lùi lại. Lòng ông ngổn ngang.

Về đến Sài Gòn, Tâm đưa Bình về căn hộ thuê tạm ở quận 2. Không rộng rãi gì, chỉ vừa đủ gọn cho một người sống một mình. Giờ thì có thêm hai người.

Ông làm cơm, đơn giản chỉ có trứng chiên và canh rau. Bình ăn rất ít, dù rõ ràng cậu đói. Cậu cứ ngó quanh, vẻ lạ lẫm.

– Cháu có muốn đi học lại không? – Tâm hỏi.

Bình ngẩng đầu, ngập ngừng.

– Cháu nghỉ học từ lúc mẹ bệnh. Giờ… cháu cũng không có giấy khai sinh.

Tâm lặng người. Đúng rồi, một đứa trẻ không giấy tờ, không hộ khẩu, không ai bảo hộ… thì làm sao nhập học? Làm sao sống?

Ngay tối đó, ông gọi điện cho người quen, hỏi về thủ tục xác minh huyết thống. Phải mất ít nhất 10 ngày để làm xét nghiệm ADN. Tâm quyết định: ông sẽ chờ, dù kết quả ra sao, ông cũng sẽ chăm sóc thằng bé trong thời gian đó.

10 ngày sau, kết quả khiến ông ngồi lặng rất lâu trong xe ô tô – không cần đến một chữ, chỉ cần một hàng: Xác nhận quan hệ cha – con ruột.

Ông cười. Cười đến khi mắt đỏ hoe.

Từ đó, cuộc sống của Tâm đảo lộn hoàn toàn.

Mỗi sáng, ông đưa Bình đến lớp bổ túc gần nhà. Trường miễn học phí cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, miễn là người giám hộ cam kết đi làm giấy tờ sau khi có ADN. Bình học giỏi, chăm ngoan, và ít nói – điều khiến giáo viên ấn tượng nhất.

Tâm thì học làm cha từ đầu: từ việc nấu ăn đủ chất cho trẻ nhỏ, đến chuyện giúp con tập đọc truyện tranh, dạy con đạp xe. Ông học cách lắng nghe – điều mà cả đời ông ít khi làm được, kể cả trong hôn nhân cũ.

Mỗi buổi tối, khi Bình ngủ, ông mở lại tấm ảnh cũ – nơi ông bế đứa bé đỏ hỏn ấy trong tay. Một Trinh trẻ trung, dịu dàng đứng kế bên. Ông bật khóc nhiều lần, nhưng lần nào cũng khẽ thì thầm: “Cảm ơn em… đã giữ lại con cho anh.”

Tuy nhiên, không phải mọi thứ đều dễ dàng.

Một ngày nọ, chị gái Tâm – bà Nguyệt – từ Biên Hòa lên thăm. Vừa bước vào nhà, bà nhìn Bình từ đầu đến chân rồi hỏi gằn:

– Nó là ai?

Tâm trả lời gọn: “Con của em.”

Bà Nguyệt nheo mắt: “Em có con hồi nào? Với ai?”

– Với Trinh. Chị còn nhớ cô ấy không?

Bà Nguyệt im lặng vài giây, rồi cười gằn:

– Con nhỏ ngày xưa nhà nghèo rớt mồng tơi, sống trọ cạnh nhà mình? Em bỏ nó mà giờ lại lôi con nó về đây nuôi? Có chắc là con em không?

– Em làm xét nghiệm rồi. Là con ruột em.

– Thì sao? Nó không có giấy tờ, không có gì chứng minh Trinh từng kết hôn với em. Nhận nó rồi lỡ sau này người ta tới đòi tiền, thì em định thế nào?

Tâm siết tay.

– Em không cần giấy kết hôn. Em chỉ cần biết nó là con em, và em muốn nó có một cuộc sống tử tế.

Bà Nguyệt thở dài:

– Em khờ quá, Tâm à. Cả đời em đã khổ vì nghĩ nhiều cho người khác. Giờ lại kéo thêm thằng nhỏ này vào nữa… Em định sống ra sao?

Tâm nhìn con trai – thằng bé đang ngồi trong góc phòng vẽ tranh bằng bút chì, rất chăm chú. Ông khẽ nói:

– Em từng nghĩ mình sống vì mình, nhưng cuối cùng vẫn thấy trống rỗng. Giờ, có nó bên cạnh, dù cực hơn, nhưng lòng em bình yên hơn bao giờ hết.

Bà Nguyệt không nói gì nữa. Hôm đó bà ở lại ăn cơm – lần đầu tiên trong nhiều năm, hai anh em cùng ngồi bên nhau mà không cãi vã.

Một năm sau.

Bình có giấy khai sinh mới. Trên đó, phần “cha” ghi rõ: Nguyễn Văn Tâm. Cậu bé cũng đã học xong lớp bổ túc, chuẩn bị vào chương trình chính quy. Tâm làm thêm dự án ngoài giờ để có tiền cho Bình học thêm tiếng Anh, toán và kỹ năng sống.

Ngày đưa Bình đi làm căn cước công dân đầu tiên, cậu bé nhìn ông và hỏi:

– Ba có mệt không?

Tâm xoa đầu con, cười hiền:

– Không mệt đâu. Có con rồi, ba sống thật sự mới là sống.

Bình không nói gì, chỉ nắm chặt tay ông. Trong bàn tay nhỏ ấy là một niềm tin – niềm tin không đến từ máu mủ, mà từ những ngày cùng nhau vượt qua tất cả.

Cuộc sống không phải lúc nào cũng cho ta cơ hội làm lại. Nhưng đôi khi, trong một khoảnh khắc bất ngờ – như tiếng động lạ từ thùng xe – mọi định nghĩa về tình thân, trách nhiệm và yêu thương có thể thay đổi mãi mãi.

Tâm đã từng nghĩ mình mất tất cả, nhưng hóa ra… ông chỉ mới bắt đầu sống một cuộc đời đúng nghĩa, nhờ có một cậu bé tên là Bình.