Người ta nói, đàn bà giỏi chịu đựng là đàn bà khổ cả đời. Nhưng đâu phải cứ mạnh mẽ là được hạnh phúc. Nhất là khi sự mạnh mẽ đó bị xem như lẽ đương nhiên…”
Chị tôi lấy chồng năm 26 tuổi – cái tuổi không còn quá trẻ để mộng mơ, cũng không quá già để đắn đo. Anh rể tôi – người chồng mà chị chọn – không phải người khéo nói, càng không phải người lãng mạn. Nhưng anh chăm chỉ, chịu khó, có vẻ an toàn, và cũng vì thế mà chị yên tâm gửi gắm cuộc đời.
Ba năm đầu sau cưới trôi qua êm đềm như bao gia đình khác: hai đứa con lần lượt ra đời, một trai một gái. Cuộc sống không dư dả nhưng cũng chẳng đến nỗi thiếu thốn. Anh rể làm thợ xây, chị ở nhà bán hàng online kiêm trông con, nội ngoại hai bên đều thương.
Rồi sang năm thứ tư, anh đột nhiên đề xuất đi xuất khẩu lao động – sang Nhật, hợp đồng ba năm, lương cao. Anh nói muốn về sau ba năm với một số vốn đủ để xây nhà, mở tiệm sửa chữa riêng. Ban đầu, cả nhà tôi và bên nội đều lo. Chị tôi thì ngập ngừng, sợ xa chồng, sợ con còn nhỏ. Nhưng trước những lời hứa chắc nịch của anh, chị gật đầu đồng ý.
Những tháng đầu, mọi thứ diễn ra như mong đợi. Mỗi tháng anh gửi về đều đặn, gọi điện hỏi han, kể chuyện công việc, dặn chị giữ gìn sức khỏe. Chị tôi gầy đi vì bận con cái và công việc, nhưng mắt vẫn sáng khi nói về chồng.
Nhưng từ năm thứ hai, tần suất liên lạc của anh giảm dần. Những cuộc gọi ít hơn, ngắn hơn, lúc nào cũng “bận”, “mệt”, “ca đêm”. Chuyển tiền cũng không còn đều như trước. Khi hợp đồng ba năm kết thúc, cả nhà ngóng anh về thì anh lại thông báo sẽ ở lại làm thêm vài năm để “gom vốn một lần về luôn”.
Chị tôi ban đầu giận nhưng rồi cũng xuôi. Chị nói, nếu ở thêm mà sau này cuộc sống tốt hơn thì cũng đáng. Người ta chờ được một năm thì chờ được năm nữa.
Chị ở nhà lo toan hết: hai con nhỏ, một mình gánh vác mọi chuyện. Ngoài việc bán hàng, chị còn chăm bố mẹ chồng đã lớn tuổi, lo giỗ chạp bên nội, bên ngoại. Không ai nghe chị than vãn nửa lời. Chị chưa từng đòi hỏi gì ở chồng, chỉ cần anh sống đúng lời hứa.
Thế rồi sang năm thứ tám anh đi, năm thứ năm không về nước – chị tôi đổ bệnh.
Mới đầu chỉ là mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt. Chị cứ nghĩ do căng thẳng, thiếu ngủ. Nhưng khi đi khám ở bệnh viện tỉnh thì phát hiện chị bị ung thư máu – ở giai đoạn cuối. Tin sét đánh ngang tai. Tôi vẫn nhớ như in ngày chị ngồi lặng trên giường bệnh, tay vuốt tóc đứa con trai út mà mắt đẫm nước.
Cả nhà tôi chạy vạy khắp nơi để chữa trị cho chị. Chị không chịu nằm viện lâu, cứ xin về nhà để được gần con. Trong thời gian đó, bao lần gia đình tôi gọi cho anh rể, mong anh về. Nhưng hết lần này đến lần khác, anh viện cớ công việc, viện cớ chưa xong giấy tờ. Mãi đến lúc chị chỉ còn thoi thóp, anh cũng không về.
Chị tôi mất vào một buổi chiều âm u, trời mưa lất phất, như có ai khóc cùng. Mắt chị nhắm lại trong sự mỏi mệt, có lẽ vì biết mình đã đợi quá lâu. Hai đứa con gào khóc bên quan tài mẹ, mà người cha chúng mãi đến một tuần sau mới xuất hiện.
Anh về chịu tang chỉ đúng bảy ngày rồi lại khăn gói ra đi. Không ai giữ. Cũng không ai còn thiết trách móc.
Trước khi đi, anh chia hai đứa trẻ cho hai bên nội ngoại. Con trai út – mới lên 6 – gửi cho ông bà nội. Con gái lớn – học lớp 4 – được đưa về nhà tôi. Anh nói không thể chăm con được vì còn phải đi làm xa. Gia đình tôi lúc ấy không đồng ý, nhưng vì thương cháu, bố mẹ tôi đành gật đầu.
Từ đó, gần như không còn ai nhắc đến anh rể nữa. Có thì cũng chỉ là trong những câu chuyện trách móc, bực dọc.
Anh không gọi điện, không hỏi han, không gửi tiền trợ cấp. Có lúc, ông bà nội phải bán vàng cưới của con gái để nuôi cháu. Nhà tôi cũng vậy, bố mẹ tôi già đi trông thấy, vừa buồn vừa giận.
Năm tháng trôi qua. Chúng tôi cứ nghĩ như thế là hết. Ai ngờ một buổi chiều, đúng tròn 5 năm ngày chị mất, nhà tôi nhận được tin dữ: anh rể mất ở nước ngoài, không rõ nguyên nhân.
“Khi một người ra đi, họ mang theo những điều chưa nói, những lỗi chưa chuộc và cả những câu hỏi chưa ai trả lời.”
Tin anh rể mất đến một cách bất ngờ, qua một người bạn lao động cùng khu trọ cũ ở Nhật. Người đó tìm cách liên hệ với gia đình anh qua mạng xã hội, nhắn vỏn vẹn vài dòng: “Anh mất rồi. Đột quỵ trong phòng trọ. Cảnh sát đã xử lý, nhưng chưa liên lạc được thân nhân.”
Chúng tôi bàng hoàng. Không ai biết phải làm gì. Chị tôi mất đã 5 năm, giờ đến lượt anh, ra đi khi còn chưa tròn 40 tuổi, để lại hai đứa trẻ côi cút.
Nhưng điều khiến cả nhà sửng sốt hơn cả – là sau khi anh mất, giấy tờ anh để lại bị phía cảnh sát thu giữ, nhưng có một người phụ nữ đứng ra nhận thi thể, tự xưng là “vợ chưa đăng ký kết hôn”.
Người này tên là Linh, làm cùng công ty với anh suốt 4 năm. Chính cô là người đã sống chung với anh trong căn phòng trọ cuối cùng. Cô cung cấp giấy xác nhận bạn đời để lo hậu sự cho anh. Gia đình tôi chỉ biết đến chuyện này sau khi đại sứ quán thông báo – bởi thi thể anh đã được hỏa táng theo nguyện vọng “người thân” bên đó.
Vụ việc khiến cả nhà dậy sóng. Không ai ngờ suốt từng ấy năm, anh có gia đình thứ hai bên đó. Chị tôi – người vợ chính thức, người một mình gồng gánh con cái và bố mẹ chồng – chưa bao giờ được gọi tên trong cuộc sống thứ hai ấy.
Tài sản anh để lại không nhiều. Trong tài khoản có chưa đến 200 triệu đồng – một con số quá ít so với lời hứa “gom vốn về làm ăn”. Nhưng điều đau lòng hơn là những bức ảnh trong điện thoại, những dòng tin nhắn yêu thương anh để lại cho người phụ nữ kia, còn cả hình cưới, ảnh hai người du lịch với nhau ở khắp nơi.
Chúng tôi chọn cách im lặng. Không ai đủ sức đi kiện cáo hay tranh giành gì nữa. Chị tôi đã chết trong đợi chờ, thì giờ còn gì quan trọng bằng việc lo cho hai đứa nhỏ?
Con gái chị – bé An – năm đó học lớp 9, biết hết mọi chuyện. Con bé không khóc, chỉ hỏi ông ngoại: “Sao mẹ cháu lại khổ như thế?”
Chúng tôi không ai trả lời được.
Con trai út – bé Minh – thì ít nói, càng lớn càng trầm. Nó không nhớ rõ mặt cha, chỉ gọi ông bà nội là “bố mẹ”.
Mỗi người chọn một cách để sống tiếp. Ông bà nội vì thương cháu, cũng không trách con trai nữa, chỉ âm thầm lên chùa mỗi rằm thắp hương cho cả hai vợ chồng. Bố mẹ tôi thì dồn hết tình thương vào cháu ngoại, coi như con ruột.
Mỗi lần có người hỏi về bố mẹ hai đứa nhỏ, chúng tôi chỉ bảo: “Mẹ chúng mất rồi. Còn bố… ở xa.”
Không ai muốn khơi lại chuyện cũ.
Nhưng những đứa trẻ vẫn lớn lên, vẫn học hành chăm ngoan. An đậu đại học sư phạm. Minh mê vẽ, được nhận học bổng mỹ thuật cấp tỉnh.
Có lẽ đó là điều duy nhất còn sót lại từ những gì chị tôi từng gầy dựng: hai đứa con.
Còn anh rể tôi – nếu có kiếp sau – mong anh hiểu rằng: Không phải ai chờ đợi cũng yếu đuối. Nhưng người biết chờ đợi lại thường là người bị lãng quên đầu tiên.