Ca:me:ra ở bệnh viện Bạch Mai tiết l:ộ sự thật về đời sống các bác sĩ: Vì sao ai cũng đi dép crocs?

Đây cũng được xem là điểm nhận dạng dễ thấy của các bác sĩ.

Ngày 13/09/2025, Đời sống Pháp luật đưa tin “Camera ở bệnh viện Bạch Mai tiết l:ộ sự thật về đời sống các bác sĩ: Vì sao ai cũng đi dép crocs?”. Nội dung chính như sau: 

Những ngày vừa qua, các đề tài liên quan đến bác sĩ và ngành Y nhận được nhiều sự quan tâm từ cộng đồng. Không chỉ dừng lại ở Match Day của bác sĩ nội trú, quá trình học tập hay những vất vả, nhiều điều thú vị khác cũng được chia sẻ rầm rộ. Một trong số đó là đặc điểm nhận dạng các bác sĩ ngoài áo blouse: dép crocs và đeo kính cận.

Mới đây, một đoạn camera ghi lại cảnh tượng ở bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) được nhiều người nhận ra các bác sĩ đều đi dép crocs và hầu hết đeo kính.

Các bác sĩ, y tá tại bệnh viện Bạch Mai đều mang dép crocs và đeo kính (Ảnh chụp màn hình/ @bachmai.care)

“Đều đi dép giống nhau. Chạy cấp cứu cho nhanh”, “Đều đi dép crocs và đeo kính”, “Ai cũng mang dép ngành”, “Điểm chung là dép sục”, “Điểm chung là các bác sĩ hoặc điều dưỡng đi dép giống nhau cụ thể là dép crocs”,… là bình luận từ netizen phía dưới clip.

Thực tế, không chỉ ở bệnh viện Bạch Mai mà phần lớn bác sĩ ở các bệnh viện đều đi dép crocs. Đôi dép này còn được gọi vui là dép ngành vì được các bác sĩ, y tá, nhân viên y tế sử dụng phổ biến.

Tất nhiên lựa chọn này có lý do.

Bác sĩ Lê Hữu Thắng – bác sĩ sản phụ khoa tại Bệnh viện Hùng Vương (TP.HCM) từng làm video giải thích điều này. Anh cho biết dép crocs êm chân và tiện lợi, giúp các bác sĩ thoải mái di chuyển hơn, nhất là trong những ngày trực phải đi bộ nhiều.

“Lỡ có ca cấp cứu còn phải chạy nữa mà mang giày tháo ra tháo vô không kịp. Dép crocs êm, thoải mái nên đi bộ nhiều được. Hơn nữa nó có thể bảo vệ chân mình khỏi dính máu, dính dịch khi khám bệnh bắn ra.

Nhìn tướng đeo kính cận, mang balo, đi crocs thì 80% là dân ngành Y đó” – bác sĩ Thắng nói.

Bác sĩ Thắng và các đồng nghiệp cũng dùng dép crocs (Ảnh chụp màn hình/ @uncle_thang)

Bác sĩ Thắng kết luận về đặc điểm nhận dạng bác sĩ (Ảnh chụp màn hình/ @uncle_thang)

Như Lan – CEO Bệnh viện thẩm mỹ ở TP.HCM cũng từng làm video hỏi đáp nhanh các bác sĩ, kỹ thuật viên tại bệnh viện của mình về chuyện đi dép crocs.

Mọi người đều có chung câu trả lời là dép mềm và êm nên đứng trong phòng mổ lâu không bị mỏi chân. Ngoài ra khi chẳng may rớt dụng cụ, đẩy băng ca va vào chân hay chất lỏng chảy xuống thì không bị dính vào chân nhiều.

Bác sĩ hot boy Quang Lâm check-in với đôi dép crocs (Ảnh: Trần Quang Lâm)

Không chỉ ở Việt Nam mà các bác sĩ nước ngoài cũng chuyên sử dụng dép crocs.

Ở Hàn Quốc, điều này được thể hiện rõ trong các bộ phim về đề tài y khoa gây sốt như Hospital Playlist (Những Bác Sĩ Tài Hoa), The Trauma Code Heroes On Call (Trung Tâm Chăm Sóc Chấn Thương),… từ poster phim đến từng cảnh quay. Tại đây từ bác sĩ phẫu thuật đến bác sĩ nội trú đều đi dép crocs và chạy như bay đến phòng mổ khi có cấp cứu.

Các bác sĩ trong phim The Trauma Code Heroes On Call

Dép ngành trong phim Hospital Playlist

Trên trang web hỏi đáp Quora, chủ đề này cũng được thảo luận rôm rả. Trả lời câu hỏi “Tại sao bác sĩ thường đi dép crocs?”, một tài khoản tự giới thiệu mình là bác sĩ tim mạch ở Ấn Độ nói: “Các bác sĩ phẫu thuật phải đứng nhiều giờ liền. Vì vậy, họ tìm kiếm sự thoải mái trong đôi giày của mình. Nếu bạn đã từng thấy các bác sĩ phẫu thuật đi dép crocs thì đó là vì sự thoải mái”.

Ở Mỹ, việc này cũng rất phổ biến. Tại Bệnh viện Epworth ở Richmond (bang Virginia, Mỹ) các bác sĩ và y tá đều sử dụng loại dép này trong hàng chục năm qua.

“Nhân viên phòng mổ phải đứng rất nhiều, đôi khi phải đứng đến 15 – 16 tiếng/ngày… Nhiều nhân viên thấy dép crocs rất thoải mái và dễ mang. Họ cũng có thể dễ dàng vệ sinh sạch sẽ sau khi phẫu thuật”, một quản lý khoa điều dưỡng tại khoa phẫu thuật trong ngày tại Epworth cho biết.

Các bác sĩ nước ngoài cũng dùng dép crocs (Ảnh: Rebecca Hallas)

Trước đó, VNexpress đư tin “Hành trình khắc nghiệt trong ‘lò rèn’ bác sĩ nội trú”. Nội dung chính như sau: 

Bác sĩ nội trú được xem là con đường ngắn nhất để trở thành một bác sĩ giỏi tại Việt Nam. Đây là chương trình đào tạo sau đại học chỉ dành cho những sinh viên y khoa xuất sắc và mỗi người chỉ có một cơ hội duy nhất trong đời để thi tuyển. Nếu trúng tuyển, họ bước vào ba năm tôi luyện với cường độ làm việc và áp lực học tập khổng lồ, nhưng đổi lại là được các giáo sư, bác sĩ đầu ngành chỉ dẫn, xây dựng được nền tảng chuyên môn vững chắc mà nhiều người phải mất hàng chục năm mới có được.

Để bước qua cánh cửa này, các bác sĩ tương lai phải đối mặt với một kỳ thi khốc liệt. Năm 2014, bác sĩ Hoàng Văn Chương, khi đó vừa tốt nghiệp ngành nội tiêu hóa Đại học Y Hà Nội, phải ôn tập 720 câu hỏi tự luận cho 6 môn chuyên ngành.

“Học đến câu 700 là quên sạch câu đầu tiên”, bác sĩ Chương, nay 35 tuổi, nhớ lại. “Nhiều bạn phải uống thuốc an thần để tập trung, có người bỏ cuộc giữa chừng”.

Bác sĩ Chương chụp ảnh lưu niệm trước giờ bảo vệ tốt nghiệp nội trú năm 2017, tại Đại học Y Hà Nội. Ảnh: Tú Lê

Chuyên ngành anh chọn được coi là “trái tim” của y học lâm sàng. Đây là khoa bao quát từ tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, thận – tiết niệu, huyết học, cơ – xương – khớp. Bác sĩ nội tổng hợp không chỉ rèn được tư duy hệ thống, khả năng chẩn đoán phân biệt, mà còn là lực lượng nòng cốt trong điều phối và hội chẩn. Vì vậy, hơn 100 bác sĩ nội trú, chỉ 12 người thuộc khoa Nội. Trong đó, bác sĩ Chương là một trong bốn người chọn ngành Tiêu hóa.

Áp lực học tập kéo dài khiến tóc anh rụng nhiều. Khi chính thức vào nội trú, những mảng hói lớn bắt đầu xuất hiện trên đầu. “Hầu hết bác sĩ nội trú đều gầy rộc, già đi, tóc bạc hoặc rụng”, anh nói.

Mỗi tháng, Chương trực khoảng 10 ca, mỗi ca kéo dài 24 giờ. Hết ca trực, hôm sau anh vẫn ở viện đến 22h. Có hôm 3h sáng anh mới được về tắm, 7h lại quay lại làm việc. Khoa có hơn 150 bệnh nhân, bác sĩ nội trú phải nắm rõ tình trạng từng người. “Sai sót gì, thầy sẽ gọi tên bác sĩ nội trú đầu tiên”, anh kể.

Được kỳ vọng nhiều nhưng cũng đối mặt áp lực lớn, bác sĩ nội trú thường xuyên bị nhắc nhở, thậm chí mắng trước mặt bệnh nhân và đồng nghiệp. Căng thẳng nhất là trực cấp cứu, khi cùng lúc nhiều bệnh nhân nguy kịch. “Có khi đang cấp cứu bệnh nhân này thì bệnh nhân khác lại diễn biến nặng”, Chương nhớ lại.

Hói nửa đầu, cao 1,7 m nhưng chỉ nặng 56 kg, anh Chương bị mọi người gọi là “cái sào di động”. Năm cuối nội trú, anh quen cô bạn gái khóa dưới. “Hồi đó không có thời gian nên chẳng thể yêu ai ngoài người trong bệnh viện”, anh nói. Nhưng cả hai quá bận rộn, không có thời gian vun vén, mối tình tan vỡ.

Bác sĩ Ngọc khám cho người dân trong chuyến công tác tại Yên Bái năm 2023. Ảnh nhân vật cung cấp

Chị Lê Quỳnh, vợ một bác sĩ nội trú khóa 42 kể, chỉ khi sống cùng chồng mới “thấm” nỗi vất vả của họ. Chị và chồng là bạn thanh mai trúc mã, cưới nhau khi anh Nguyên vừa bước chân vào nội trú. “Vợ chồng mới cưới, nhưng chồng đi trực ba ngày một tuần. Hôm nào không trực anh cũng ở viện tới 22h, về là lăn ra ngủ”, chị kể.

Có lần, chị Quỳnh đi làm về, biết chồng ngủ trong nhà nhưng đập cửa gọi không được. “Tôi đập mạnh đến mức bung cả chốt cửa mà chồng không biết gì. Hơn một tiếng sau anh tỉnh dậy thấy vợ đang nấu ăn thì hỏi một câu rồi lại ngủ tiếp”, chị kể. Nhiều đêm, cô vợ trẻ giật mình vì chồng ngủ mơ, chỉ la hét như đang cấp cứu trong bệnh viện.

Áp lực nội trú với những bác sĩ nữ như Lê Thị Bích Ngọc, 26 tuổi, còn lớn hơn. Có lần, khi khoa Cấp cứu A9, Bệnh viện Bạch Mai vừa giãn bớt bệnh nhân lúc 22h, bác sĩ Ngọc tranh thủ đi ăn tối. 20 phút sau quay lại, cô đã thấy tấm bảng chuyển màu đỏ – dấu hiệu cảnh báo mức độ cấp cứu khẩn cấp cao nhất. Không khí trong phòng đặc quánh. Tiếng máy monitor dồn dập, xen lẫn tiếng y lệnh ngắn gọn.

Ba bác sĩ đang thay nhau ép tim phối hợp cùng các kỹ thuật hồi sức khác để giành lại sự sống cho bệnh nhân đã ngừng tim ngoại viện. Ngọc lao đến, nhập cuộc. Suốt 40 phút không ngừng nghỉ, cuối cùng tín hiệu sống kêu trở lại trên monitor. Giây phút ấy nữ bác sĩ bỗng thấy cay mắt.

“Nam bệnh nhân mới ngoài 30 tuổi, bên ngoài cánh cửa phòng cấp cứu là cha mẹ, vợ con cần anh làm chỗ dựa”, bác sĩ Ngọc nói. “Khoảnh khắc thấy tim đập trở lại, tôi nghĩ mình đã làm được điều xứng đáng với nghề”.

Bích Ngọc hiện là bác sĩ nội trú năm ba, chuyên ngành Nội tổng hợp, đi sâu vào cơ – xương – khớp. “Làm nội tổng hợp cho tôi nền tảng mà cả đời bác sĩ sẽ dùng, bất kể sau này đi theo nghiên cứu, giảng dạy hay thực hành chuyên khoa”, Ngọc nói.

Ba năm nay, Ngọc thực hành chính ở các khoa Nội và tăng cường cho A9, Bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện Đại học Y. Làm việc tại nơi ranh giới sống chết chỉ cách nhau gang tấc, Ngọc cho biết chịu sức ép rất lớn đến từ cả chuyên môn, thầy cô hướng dẫn, đồng nghiệp, lẫn gia đình bệnh nhân.

Là nữ nhưng ca trực và cường độ làm việc của Ngọc không khác nam giới. Mỗi ngày, cô bắt đầu từ 7h sáng, kết thúc lúc 22h, tuần trực 3 ca. Ngày nào được ngủ 2-3 tiếng là nhiều. Ba năm nội trú không có nghỉ hè, ngày Tết cũng rất hạn chế. Nhiều hôm về nhà, đặt lưng xuống là cô ngủ như chết. “Chúng tôi hay đùa nhau ‘sống chỉ để trực đêm'”, Ngọc nói.

Bích Ngọc thấy may mắn khi có bạn trai đồng hành suốt 5 năm. Họ đã kết hôn đầu năm nay, riêng chuyện sinh con phải chờ tốt nghiệp. Cô cho biết vì áp lực cường độ cao nên số đông bác sĩ chưa nghĩ đến lập gia đình, thậm chí nhiều người “chưa mảnh tình vắt vai”. Những năm trước đây việc kết hôn rất ít và mang thai gần như tối kỵ.

“Ba năm nội trú gian khổ nhưng cũng là hành trình huy hoàng của tuổi trẻ, mà bác sĩ nào cũng muốn đi qua”, bác sĩ Ngọc nói. Với cô, đây như lò rèn – nơi mọi giới hạn về thể lực, tinh thần và kiến thức đều bị thử thách. Nhưng đó cũng chính là hành trình giúp cô trưởng thành, tự tin và bản lĩnh hơn trên con đường trở thành một bác sĩ giỏi.

Bác sĩ Chương (áo xanh) nội soi cho một bệnh nhân tại phòng khám, tháng 9/2025. Ảnh: Tú Lê

Hoàng Văn Chương cũng vậy. Anh đã trở thành bác sĩ như mong muốn. Nhưng mái tóc hói nửa đầu của anh không trở lại như xưa được nữa. Cuối cùng, anh chọn cạo trọc “để dễ nhìn hơn”.

Sau thời gian công tác tại Bệnh viện Bạch Mai, Chương chuyển sang một bệnh viện tư ở Hà Nội, với mong muốn vừa tiếp tục nghề, vừa có thêm thời gian cho gia đình, chuẩn bị kế hoạch có con thứ hai.

Vợ chồng chị Quỳnh cũng đã về Thanh Hóa. Chồng chị hiện là giảng viên Đại học Y Hà Nội cơ sở Thanh Hóa, kiêm bác sĩ tại bệnh viện tỉnh. Thay vì gồng gánh như những năm chồng học nội trú, nay nữ dược sĩ mở quầy thuốc nhỏ ở nhà, chăm con.

“Sau hành trình gian nan, giờ tôi cũng mãn nguyện vì chồng có thể lo cho gia đình và giúp đỡ nhiều bệnh nhân đúng như lý tưởng nghề nghiệp anh đặt ra”, chị Quỳnh nói.