Một tay tôi chăm mẹ chồng gần chục năm trời không ai đóng góp cùng, nhưng đến ngày bà làm di chúc toàn bộ đất đai cho hết con gái, tôi chỉ được đúng 50 triệu tiết kiệm của bà.

“Tôi đã chăm sóc mẹ chồng suốt gần mười năm, từ ngày bà ngã bệnh không tự đi lại được, từng bữa cơm giấc ngủ đều do một tay tôi lo. Chẳng ai trong nhà hỏi han, đỡ đần lấy một ngày. Thế mà đến khi bà làm di chúc, toàn bộ đất đai lại để lại cho cô con gái út ở thành phố, còn tôi, chỉ được vỏn vẹn 50 triệu đồng tiền tiết kiệm. Tôi im lặng không nói gì, nghĩ rằng mình làm phúc sẽ có báo, nhưng đến khi đi rút số tiền ấy, tôi mới bật khóc nức nở khi biết được lý do…”

Tôi về làm dâu năm 27 tuổi, nhà chồng có năm người con, ba trai hai gái. Chồng tôi là con trai thứ hai, trên có anh cả và dưới là một cậu út vẫn còn đang học đại học lúc đó. Hai cô con gái thì một lấy chồng xa tận Cần Thơ, một ở thành phố Hồ Chí Minh, ít khi về nhà.

Ngày mới cưới, tôi đã nghe nhiều người bảo mẹ chồng tôi khó tính. Bà từng làm y tá thời bao cấp, quen lối sống tằn tiện, sạch sẽ và kỷ luật. Ai cũng sợ bà, nhưng tôi lại thấy thương. Có lẽ vì mẹ tôi mất sớm nên tôi luôn thiếu thốn tình cảm của một người mẹ lớn tuổi. Tôi nghĩ nếu mình sống thật lòng, thật hiếu thuận, thì bà sẽ hiểu.

Rồi năm thứ ba sau cưới, bà ngã bệnh, liệt nửa người sau một cơn tai biến. Từ đó, mọi sinh hoạt cá nhân của bà đều cần người giúp. Cả nhà họp lại, ai cũng rút lui. Cô chị cả viện lý do con nhỏ, cô em út bảo nhà chồng khó khăn, anh cả thì bận công việc, em út còn đi học, chỉ còn tôi – người con dâu không có tiếng nói gì trong nhà – ở lại lo cho bà.

Tôi không trách ai. Tôi hiểu mỗi người đều có hoàn cảnh riêng. Nhưng chăm một người nằm liệt giường không phải là chuyện đơn giản, nhất là chăm trong suốt gần mười năm ròng rã.

Tôi nhớ có những đêm đông lạnh, bà sốt cao, tôi ngồi canh chừng suốt, lấy khăn lau người, pha sữa, xoa bóp cho bà dịu lại. Có hôm bà tiêu tiểu không tự chủ, tôi dậy lúc 3 giờ sáng, vừa dọn vừa khóc vì quá mệt, nhưng vẫn cố nhẹ tay để bà không xấu hổ.

Những lần cả nhà đi chơi Tết, tôi ở lại với mẹ. Những lần giỗ chạp, tôi vừa lo cơm nước vừa lo vệ sinh cho bà. Chồng tôi đi làm xa, chỉ về cuối tuần, rồi cũng ít dần vì công việc. Người duy nhất còn ở nhà là tôi – người con dâu không danh không phận, lo cho một người mẹ chồng đã gần như không còn nói chuyện được.

Ban đầu, tôi cũng mong một lời động viên, một cái nhìn biết ơn. Nhưng không có. Cô em út gửi vài hộp sữa, rồi đăng lên Facebook “dù xa nhưng vẫn luôn nhớ mẹ”. Cô chị cả Tết về, dắt con vào phòng thắp nhang, không hỏi mẹ sống ra sao. Họ hàng ai đến cũng khen tôi giỏi, nhưng chỉ có lời nói. Còn tiền, còn công sức, còn việc thì không ai đụng vào.

Tôi có lúc tủi thân đến mức không dám soi gương. Đôi bàn tay thô ráp vì giặt giũ, làn da sạm đi vì mất ngủ, nụ cười gượng gạo. Tôi từng là cô gái có ước mơ mở tiệm may, giờ quanh quẩn trong căn nhà nhỏ, chăm một người không còn biết tôi là ai.

Rồi một hôm, tôi tình cờ nghe chồng nói chuyện điện thoại với chị gái. Anh bảo:
– Má nói chắc sau này để lại miếng đất lớn cho con Út. Ổng Bảy (anh cả) cũng không nói gì, miễn bà thấy thoải mái.
Tôi lặng người.

Mảnh đất ấy nằm ngay mặt tiền quốc lộ, giá trị hơn 2 tỷ đồng. Bao năm nay tôi vẫn chăm bà với một niềm tin rằng, dù không cần báo đáp, ít ra cũng được ghi nhận. Nhưng hóa ra, người ta chỉ nhìn vào máu mủ ruột rà.

Tôi không hỏi. Tôi không trách. Tôi chỉ im lặng tiếp tục chăm bà. Tôi từng nghĩ, thôi thì làm điều đúng đắn sẽ có ông trời chứng giám.

Cho đến ngày bà mất.

Mẹ chồng tôi mất vào một buổi sáng tháng Chạp, khi sương vẫn còn giăng kín trên mảnh vườn sau nhà. Bà ra đi nhẹ nhàng, mắt khép lại, không đau đớn, không trăn trối. Tôi là người phát hiện ra đầu tiên khi mang cháo lên phòng như thường lệ. Lúc tôi gọi khẽ, bà không đáp. Tim tôi khựng lại. Tôi lay nhẹ vai bà, rồi mạnh hơn, rồi nhận ra tay bà đã lạnh đi từ lúc nào. Tôi ngồi đó thật lâu, bên cạnh người phụ nữ đã từng là gánh nặng, là bổn phận, rồi dần thành thói quen, thành một phần của cuộc sống tôi suốt gần mười năm trời.

Đám tang bà diễn ra nhanh chóng. Mọi người đều đến đủ. Ai cũng rơi nước mắt, người thân, bà con, hàng xóm. Cô em út từ thành phố về, khóc lóc ôm di ảnh, gọi “má ơi má ơi” như thể bao năm qua vẫn luôn cận kề. Tôi không nói gì, chỉ lo cúng bái, tiếp khách, dọn dẹp, rồi lại ra vườn rửa những cái nồi to nặng bằng đôi tay quen thuộc.

Ba ngày sau đám tang, cả nhà họp lại nghe đọc di chúc.

Người luật sư lấy từ trong cặp ra một phong bì dán kín, bảo bà đã lập từ năm ngoái, có chữ ký và xác nhận đầy đủ. Khi phong bì được xé ra, mọi người dỏng tai lắng nghe. Tôi thì đã chuẩn bị sẵn tâm lý.

Di chúc ghi rõ:
– Mảnh đất mặt tiền 360m2 để lại cho cô con gái út, Nguyễn Thị Diễm.
– Căn nhà đang ở và vườn cây phía sau thuộc về người con trai cả, Nguyễn Văn Hùng.
– Còn lại, khoản tiền tiết kiệm trong ngân hàng – 50 triệu đồng – để lại cho con dâu, Nguyễn Thị Mai (là tôi).

Không ai phản đối. Mọi người coi như hợp lý. Chồng tôi lặng thinh. Tôi cũng chỉ gật đầu cảm ơn.

50 triệu. Đó là tất cả phần của tôi, sau gần một thập kỷ chăm sóc một người bệnh liệt giường. Tất cả đất đai, nhà cửa đều không có tên tôi. Tôi không thấy sốc. Chỉ có một cảm giác hụt hẫng nhẹ nhàng – như gió lùa qua một ô cửa khép hờ. Tôi lặng lẽ cầm giấy ra ngân hàng để làm thủ tục rút tiền.

Người giao dịch viên ở quầy nhìn kỹ giấy tờ một hồi, rồi bảo tôi ngồi chờ vì cần xác minh thêm thông tin. Tôi gật đầu. Sau khoảng 15 phút, một chị nhân viên lớn tuổi bước ra, tay cầm cuốn sổ tiết kiệm. Chị nhìn tôi với ánh mắt lạ kỳ.

– Chị là cô Mai, đúng không? Người được bà Nguyễn Thị Lành ủy quyền?

Tôi gật đầu. Chị kéo ghế ngồi xuống, đặt cuốn sổ lên bàn, nói chậm rãi:

– Tôi từng tiếp mẹ chồng chị vài lần. Trước khi bà yếu hẳn, bà có đến đây, nhờ mở sổ tiết kiệm và yêu cầu ghi chú rõ ràng người thụ hưởng là chị. Lúc đó, tôi hỏi sao không để lại cho con ruột, bà bảo, mấy đứa kia ai cũng có phần đất cả rồi. Còn chị… là người duy nhất chịu ngồi bên bà suốt mười năm.

Tôi ngẩn ra. Chị tiếp tục:

– Nhưng còn một chuyện này… bà để lại kèm một lá thư tay. Bảo rằng nếu chị đến rút tiền, thì đưa cho chị đọc.

Chị lấy ra một phong thư nhỏ, ố vàng, dán kín. Tôi mở ra, dòng chữ nghiêng nghiêng quen thuộc của mẹ chồng hiện ra trước mắt:

“Mai,

Má biết con sẽ không mong má để lại gì cho con, nhưng má cũng không thể nhắm mắt mà lòng không áy náy. Má không nói được, nhưng má thấy hết. Từng lần con bế má dậy, từng đêm lạnh con đắp chăn, từng lúc con rửa ráy cho má, má đều biết.

Má xin lỗi vì không bênh con khi con bị trách. Má xin lỗi vì không ôm con một lần.

Má có mỗi từng này tiền, để dành được từ trợ cấp và con út gửi. Má muốn nó là của con. Má mong con dùng để làm điều con thích.

Đừng nghĩ má không thương con. Má chỉ… không biết cách thể hiện.

Má – Lành.”

Tôi đọc đến đó thì nước mắt rơi xuống từng giọt. Không ồn ào, không khóc nức nở, chỉ là nước mắt tự chảy, như trút bỏ thứ gì đó đã đè nặng trên ngực tôi bao năm.

Hóa ra… bà biết.

Hóa ra, tôi không vô hình như tôi vẫn tưởng.

50 triệu đồng – với người khác có thể là một khoản nhỏ, nhưng với tôi lúc đó, là một sự thừa nhận, một lời xin lỗi, một cái ôm muộn màng.

Tôi bước ra khỏi ngân hàng, tay vẫn cầm lá thư đã nhòe mực vì nước mắt. Tôi nhìn lên trời, nghĩ rằng bà chắc đang mỉm cười đâu đó.

Tôi không cần đất. Không cần tiếng thơm. Tôi chỉ cần một người từng ở bên tôi suốt gần mười năm cuối đời… đã hiểu tôi.