Con trai tôi bỏ cả tiểu thư Hà Thành để cưới cô gái nuôi bò trên Điện Biên, đến ngày dạm ngõ tôi chỉ mang đúng 1 triệu lễ đen, nào ngờ bước chân đến cổng nhà gái tôi ch-ết lặng vì trước mặt không phải căn nhà l;ụp x;ụp

“Con trai tôi bỏ cả tiểu thư Hà Thành để cưới cô gái nuôi bò trên Điện Biên. Ngày nó báo tin, tôi suýt sặc nước chè. Một đứa học đại học Ngoại thương, tương lai sáng lạn, gia đình có điều kiện, lại đi lấy một cô gái… chăn bò? Đến ngày dạm ngõ, tôi mang đúng 1 triệu lễ đen, lòng đầy định kiến, ngỡ mình đi vào nơi lam lũ. Ai ngờ… bước chân đến cổng nhà gái, tôi chết lặng. Trước mắt tôi không phải là căn nhà sàn cũ kỹ như tôi tưởng, mà là một căn biệt thự hai tầng giữa núi đồi, hoành tráng chẳng kém gì nhà đại gia phố cổ.”

Tôi tên là Thức, năm nay đã ngoài 50 tuổi, làm kế toán trưởng cho một doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội. Vợ tôi là giáo viên cấp ba đã về hưu. Chúng tôi chỉ có một đứa con trai – Tùng – bao nhiêu kỳ vọng đều đặt cả vào nó. Tùng học giỏi, thông minh, ngoan ngoãn. Ngay từ thời đại học ở Ngoại thương, nó đã được nhiều người chú ý. Gia đình tôi chẳng phải đại gia, nhưng cũng không thiếu thốn – nhà mặt phố quận Hai Bà Trưng, có ô tô, có nhà cho thuê, cuộc sống không đến nỗi nào.

Sau khi tốt nghiệp, Tùng làm cho một công ty logistics của Nhật. Lương tháng mấy chục triệu, lại còn được cất nhắc lên vị trí quản lý sớm. Chúng tôi mừng lắm. Hơn hết, Tùng còn yêu một cô gái cùng công ty – Mai, tiểu thư chính hiệu nhà ở phố Tràng Tiền, bố mẹ làm giám đốc công ty bất động sản. Cả hai gia đình từng gặp gỡ vài lần, có vẻ ưng ý, tôi cũng đã nghĩ đến chuyện cưới xin.

Thế mà đùng một cái, nó về nhà, giọng điềm tĩnh nhưng dứt khoát:

– Con chia tay Mai rồi. Con định cưới Thảo, cô gái con quen trong chuyến đi tình nguyện ở Điện Biên năm ngoái.

Tôi suýt đánh rơi cái bát đang cầm.

– Thảo nào? Con quen nó bao lâu? Nó làm gì?

– Cô ấy nuôi bò, làm nông, ở Mường Ảng. Gia đình có trang trại.

Tôi tức nghẹn. Từ tiểu thư Tràng Tiền nhảy sang cô gái… nuôi bò? Tưởng con tôi bị bỏ bùa mê thuốc lú! Nhưng nó rất nghiêm túc. Nhìn ánh mắt nó khi nói về Thảo, tôi biết, tình cảm ấy là thật. Vợ tôi can:

– Thôi ông, đừng ép nó. Duyên nợ là do trời định. Biết đâu gái Điện Biên lại có phúc hơn?

Tôi miễn cưỡng đồng ý cho gặp mặt, nhưng trong lòng đầy dè chừng.

Thảo lần đầu về Hà Nội thăm gia đình tôi là vào dịp Tết. Tôi ngạc nhiên vì cô gái ấy không hề thua kém ai về lễ nghĩa, nói năng khéo léo, đặc biệt có đôi mắt sáng và nụ cười hiền. Nhưng tôi vẫn chưa yên tâm. Bề ngoài dễ giả lắm.

Tôi kín đáo hỏi thằng Tùng:

– Nhà nó thế nào? Nghèo lắm à? Có bố mẹ không?

– Bố mẹ cô ấy mất sớm, để lại trang trại. Giờ cô ấy quản lý một mình. Con từng đến rồi, nhà không nghèo đâu. Nhưng bố mẹ đừng mong biệt thự thành phố.

Nghe xong, tôi nghĩ bụng: “Không mong biệt thự, chỉ mong có cái nhà gỗ tử tế là mừng.”

Ngày dạm ngõ, tôi nhất quyết chỉ mang đúng một triệu lễ đen. Tôi muốn thử xem phản ứng nhà gái thế nào. Nếu người ta thực lòng, sẽ không chấp nhặt vật chất. Tôi mang theo ít trà ngon, hộp bánh và một bó lan rừng.

Chuyến đi lên Điện Biên bắt đầu từ 4 giờ sáng. Đường đèo uốn lượn, xe chòng chành, nhưng càng đi, tôi càng thấy kỳ lạ. Chỗ con đường đất lầy lội mà tôi tưởng, hóa ra là con đường bê tông phẳng lì. Khi đến gần nơi Tùng bảo là “trang trại Thảo”, tôi bắt đầu thấy lo.

Bởi trước mắt tôi là một khu nhà xây theo mô hình sinh thái nghỉ dưỡng: cổng gỗ chạm trổ, hàng rào tường rào sạch sẽ, trồng đầy hoa hướng dương và dâm bụt. Ở chính giữa là một căn biệt thự hai tầng hiện đại, sơn trắng, mái ngói đỏ tươi, sân lát đá, có cả gara để xe hơi và một căn nhà sàn truyền thống bên cạnh.

Tôi chết lặng, cứ ngỡ lạc đường.

– Bố ơi, đến nơi rồi đấy – Tùng cười, kéo vali xuống xe.

Một người đàn ông trung niên chạy ra chào. Ông tên Quý – bác họ của Thảo – người đại diện gia đình.

– Chào anh Thức, cảm ơn anh chị đã lặn lội lên tận đây. Mời vào nhà, mời vào nhà!

Tôi bước vào căn biệt thự, mắt vẫn chưa hết choáng. Trong nhà lát gỗ, bày trí giản dị mà tinh tế. Tường treo tranh sơn dầu, sàn bóng loáng, mùi hương trầm phảng phất. Tôi không tin đây là “nhà cô gái nuôi bò”.

– Cháu Thảo từ nhỏ đã theo bố mẹ nuôi trâu bò, trồng cây dược liệu. Giờ cháu nối nghiệp, mở luôn homestay cho khách du lịch Tây Bắc. Một năm cũng kiếm hơn trăm triệu đều đều – bác Quý kể, giọng đầy tự hào.

Tôi quay sang nhìn con trai. Nó chỉ cười.

– Con nói rồi mà, nhà Thảo không nghèo. Cô ấy còn tự mở hợp tác xã để bao tiêu sữa bò cho cả huyện. Chỉ là… cô ấy không quen phô trương thôi.

Tôi thấy mình như người thành phố bị “dạy một bài học”. Hóa ra “gái nuôi bò” bây giờ không còn là hình ảnh lam lũ như ta tưởng. Họ cũng có tri thức, bản lĩnh và lòng tự trọng không kém ai.

Đến khi tôi rút ra một triệu lễ đen, còn ngại ngần xin lỗi, thì Thảo chỉ cúi đầu lễ phép:

– Con biết nhà trai ở xa, lại không câu nệ vật chất. Một triệu là quý rồi ạ. Con mong bố mẹ thương con như con gái trong nhà là con mừng.

Câu nói ấy khiến tôi nghẹn lại. Từ lúc đó, tôi hiểu, mình đã sai.

Lễ cưới của Tùng và Thảo được tổ chức giản dị nhưng ấm cúng trên mảnh đất Điện Biên. Không sảnh cưới sang trọng, không pháo điện nháo nhào, mà là một buổi tiệc giữa thiên nhiên: đồng cỏ xanh, rượu ngô thơm lừng, tiếng khèn gọi bạn vang vọng giữa núi rừng. Họ hàng tôi từ Hà Nội lần đầu được sống trong không khí này – ban đầu ngỡ lạc lõng, sau lại tiếc nuối khi phải rời đi.

Vài tuần sau đám cưới, Tùng gọi điện báo:

– Con quyết định ở lại Điện Biên với Thảo. Bọn con mở rộng hợp tác xã, kết hợp du lịch sinh thái và phát triển trang trại bò sữa.

Tôi ngẩn người.

– Con bỏ công việc ở Hà Nội à? Mấy năm ăn học, sự nghiệp con để lại hết sao?

– Con không bỏ gì cả, chỉ chuyển hướng. Điện Biên có tiềm năng. Với vốn kiến thức quản trị, con nghĩ mình giúp được nhiều người hơn ở đây.

Tôi biết, không còn cản được. Đứa con tôi dạy dỗ bằng sách vở, giờ lại chọn gắn bó với ruộng đồng và núi đồi. Nhưng tôi bắt đầu hiểu, đó không phải là lựa chọn dại dột, mà là một cuộc tìm về: trở về với sự tử tế, với giá trị thật sự.

Nhưng cuộc sống sau hôn nhân đâu dễ dàng. Mặc dù yêu nhau tha thiết, nhưng giữa Tùng và Thảo vẫn tồn tại khoảng cách – không phải vật chất, mà là lối sống.

Tùng quen thức khuya làm việc trên máy tính, còn Thảo quen dậy từ 5 giờ sáng để vắt sữa bò. Tùng thích cà phê và máy lạnh, Thảo thích nước chè xanh và gió trời. Những khác biệt nhỏ dần thành mâu thuẫn.

Có lần, Tùng gọi điện cho tôi giữa đêm:

– Bố ạ, con thấy mình sai rồi. Con không quen được cách sống này. Con nhớ tiếng còi xe, nhớ quán phở sáng, nhớ bạn bè ở Hà Nội…

Tôi không vội nói gì. Tôi hỏi:

– Còn Thảo thì sao?

– Cô ấy vẫn thế. Điềm đạm, chăm chỉ, chẳng than thở gì. Nhưng con thấy mình đang làm cô ấy buồn. Con ích kỷ quá.

Sau đó vài tuần, Tùng xin xuống Hà Nội một thời gian để “lấy lại thăng bằng”. Tôi và vợ không ngăn cản, chỉ dặn nó phải nói chuyện rõ ràng với Thảo.

Nhưng chính lần xa cách đó đã khiến nó nhận ra: Hà Nội không còn là nhà nữa. Quán xá vẫn thế, bạn bè vẫn vậy, nhưng lòng nó trống rỗng. Nó nhớ mùi cỏ non trong trang trại, nhớ tiếng Thảo cười khi cho bê ăn, nhớ cái dáng nhỏ bé của vợ đội nón lá giữa trưa nắng mà vẫn không than một lời.

Một tối, nó gọi tôi:

– Bố ạ, con sai rồi. Con về Điện Biên đây. Nhà con ở đó.

Tôi chỉ đáp:

– Đi đi con. Đàn ông phải biết mình cần gì.

Tùng về. Thảo không trách, chỉ cười nhè nhẹ:

– Em biết rồi, anh sẽ quay về. Ở đây còn bò, còn em, còn bao nhiêu người cần anh giúp.

Từ đó, Tùng thay đổi. Nó học cách dậy sớm, học cách bám đất, bám người. Nó không chỉ giúp Thảo mở rộng hợp tác xã, mà còn đưa kỹ thuật số vào sản xuất: lập website giới thiệu sản phẩm sữa bò sạch, kết nối tiêu thụ với các siêu thị lớn ở Hà Nội và Sài Gòn.

Nó còn mời bạn học cũ – kỹ sư nông nghiệp, chuyên gia marketing – về Điện Biên mở lớp đào tạo thanh niên địa phương. Hợp tác xã của Thảo, từ chỗ chỉ có vài hộ tham gia, giờ đã lên đến hơn 60 thành viên. Thu nhập tăng gấp ba, đời sống dân bản đổi khác từng ngày.

Một lần lên thăm vợ chồng nó, tôi đi dạo quanh trang trại và thấy cảnh tượng khó quên: Tùng – trong bộ quần áo cao su – đang đỡ đẻ cho một con bò nái. Thảo đứng bên cạnh, hai người cười nói giữa mùi cỏ, mùi đất và nắng chiều. Tôi bỗng nhớ lại hình ảnh nó ngày nhỏ – chạy chơi trên sân trường Hà Nội, tay cầm cái ô tô nhựa – và bỗng thấy nhẹ lòng.

Tối hôm đó, Tùng rót cho tôi ly rượu ngô:

– Bố à, con cảm ơn bố vì đã không cản con đến cùng. Giờ con hiểu: chọn đúng người, thì ở đâu cũng là đất lành.

Tôi vỗ vai nó, nghèn nghẹn:

– Bố cũng cảm ơn con… vì đã dạy bố một điều: đừng bao giờ đánh giá người khác qua vẻ ngoài hay nghề nghiệp. Một cô gái chăn bò… có thể còn bản lĩnh hơn cả trăm người mặc vest nơi đô thị.

Năm sau, họ đón con trai đầu lòng – thằng bé có tên là Nhật Lâm, nghĩa là “ánh sáng giữa rừng”. Tôi và vợ lại khăn gói lên Điện Biên, lần này không còn dè chừng mà mang theo cả niềm tự hào.

Trong bữa cơm tối, nhìn ba thế hệ quây quần giữa căn biệt thự giữa núi rừng, tôi chợt nghĩ: có lẽ hạnh phúc không nằm ở chỗ ta sống, mà ở chỗ… ta sống với ai.

Có những định kiến không nằm ở người khác, mà nằm trong chính chúng ta. Hạnh phúc, đôi khi không phải là tìm được người giống mình, mà là tìm được người khiến mình tốt hơn.