Nhà chị dâu sát nhà tôi, cứ đến bữa là 3 con của chị lại chạy qua ăn ch/ự/c, không cần ai phải mời. Các cháu đang tuổi ăn tuổi lớn nên tốn thức ăn quá, tôi mới nghĩ ra một cách ….

Chị dâu tôi tên là Hồng – một người phụ nữ giỏi giang, sắc sảo, miệng lúc nào cũng tươi cười, nhưng tiếng cười ấy nhiều khi như dao cạo lên mặt người đối diện. Nhà chị sát vách nhà tôi. Chúng tôi chỉ cách nhau một bức tường mỏng như giấy – và không gì có thể lọt qua đó nhiều hơn… mùi cơm chiều.

Mỗi lần đến bữa, mùi canh chua, cá kho hay thịt rang bốc lên nghi ngút từ bếp nhà tôi. Nhưng điều tôi không ngờ tới – hay đúng hơn là không ngờ lại kéo dài đến thế – là ba đứa con của chị Hồng lại coi nhà tôi như nhà ăn tập thể. Cứ đến tầm 5 giờ chiều, như có chuông reo trong đầu, cả ba đứa nhỏ – Tí, Tũn, và Tun – lại rồng rắn chạy qua, miệng reo: “Dì Nhi ơi, ăn cơm với!”

Tôi tên là Nhi – người đàn bà 36 tuổi, sống cùng chồng và một đứa con trai nhỏ, làm công nhân may gần khu công nghiệp Đức Hòa, Long An. Cuộc sống không dư dả gì, cơm nước phải cân đo đong đếm từng chút. Thế mà chiều nào cũng phải chắt chiu thêm ba phần ăn cho mấy đứa cháu “ăn nhờ ăn gửi”, không chút khách sáo.

Lúc đầu, tôi nghĩ: “Ừ thì tụi nhỏ còn bé, lại là cháu trong nhà, cho ăn một bữa cũng chẳng sao.” Nhưng rồi một bữa thành hai, hai thành bốn, rồi thành thói quen như cơm bữa. Tôi đâm ra bực mà không dám nói.

Có lần, tôi giả vờ đóng cửa, tắt đèn bếp sớm, nhưng Tí vẫn gõ cửa rầm rầm: “Dì ơi, tụi con qua ăn cơm nhen!” Chưa kịp trả lời, ba đứa đã lục tục bước vào, leo lên ghế ngồi ngay ngắn, chờ tôi bưng mâm ra. Như thể chuyện đó là đương nhiên, là quyền lợi.

Chồng tôi – anh Hải – thì hiền như đất. Thấy tụi nhỏ sang ăn thì chỉ cười: “Kệ tụi nó, cháu mình mà, coi như nhà đông vui.” Nhưng đàn bà lo toan bếp núc, tôi hiểu rõ mỗi bữa cơm phải đi chợ tính toán ra sao, mỗi cái đùi gà phải chia làm mấy khúc. Có hôm tôi luộc hai quả trứng, định dành cho con trai tôi – thằng Bi – vậy mà vừa đặt lên mâm, Tun với Tũn đã gắp liền tay. Thằng Bi chỉ nhìn, không dám nói. Tôi thấy ánh mắt nó buồn buồn, mà lòng đau như ai cắt.

Tôi bắt đầu để ý nhiều hơn đến thói quen ăn uống của mấy đứa nhỏ. Tí ăn như hổ đói, cứ món nào ngon là vét sạch, mặc kệ người khác có ăn được hay không. Tũn thì hay đòi nước ngọt, nước mắm phải đúng hiệu, cơm phải nóng hổi. Còn Tun thì… ăn xong không rửa tay, chén bát để nguyên, thản nhiên về nhà như thể nhà tôi là quán ăn.

Một lần, tôi không kiềm được nữa, ngồi xuống nói với chị Hồng:

– Chị Hồng nè, tụi nhỏ cứ qua nhà em ăn suốt vậy, em cũng hơi khó xử…

Chị Hồng cười xòa, tay vẫn bấm điện thoại:

– Ừ thì tụi nó thương dì Nhi, nhà chị thì toàn đồ chiên xào, khẩu vị khác. Qua bên em ăn cơm nhà quê lại thấy ngon, biết sao được! Mà tụi nhỏ đang tuổi ăn, ăn cho nó mau lớn chứ có gì đâu!

Câu nói nhẹ tênh như gió thoảng, nhưng với tôi, nó nặng như gạch đè ngực.

Từ sau hôm đó, tôi quyết định thay đổi. Tôi mua ít đồ ăn hơn, nấu đơn giản, tránh mùi thơm. Tôi dặn con trai ăn nhanh, không rề rà. Nhưng vẫn không ăn thua. Mấy đứa nhỏ hình như có “máy quét mùi”, cứ đúng giờ là sang. Tôi lúng túng, không thể đuổi, cũng không thể mời nhiệt tình.

Đỉnh điểm là hôm đó, tôi chỉ có hai con cá kèo kho nghệ, định làm món đặc biệt cho thằng Bi – nó thích nhất món này. Vậy mà khi tôi bưng ra, cả ba đứa nhỏ đã ngồi sẵn. Tôi nhìn nồi cá, rồi nhìn con mình đang mếu máo, lòng tôi như sôi lên.

Tối đó, tôi ngồi thừ trên giường, anh Hải hỏi:

– Em có chuyện gì hả Nhi?

Tôi chỉ nói:

– Anh có nghĩ em quá đáng nếu từ chối tụi nhỏ không?

Anh Hải thở dài:

– Không, nhưng cũng khó xử. Dù gì cũng là cháu ruột…

Tôi quay sang, mắt đỏ hoe:

– Nhưng con mình thì sao? Nó có quyền gì trong chính mâm cơm nhà nó?

Ngày hôm sau, tôi quyết định làm điều mà tôi chưa từng dám – đóng cửa, cài then, tắt đèn bếp sớm. Khi tụi nhỏ gõ cửa, tôi giả vờ không nghe. Tim tôi đập thình thịch, không biết điều đó có quá đáng không, có tàn nhẫn không…

Nhưng rồi, một tiếng nói vang lên từ ngoài cửa:

– Mẹ ơi, sao nhà dì Nhi nay không mở cửa? Tụi con đói…

Tôi bật khóc. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy mình ích kỷ – và cũng lần đầu, tôi thấy mâm cơm của mình, dù ít ỏi, lại có thể quan trọng đến thế.

Tiếng đứa nhỏ gọi ngoài cửa cứ văng vẳng trong đầu tôi suốt đêm. Câu nói ngây ngô, chân thật như một cú đánh mạnh vào tim: “Tụi con đói…”

Tôi không ngủ được. Nằm bên thằng Bi đang say giấc, tôi vuốt tóc nó mà lòng rối như tơ vò. Mình có thật sự là người lớn không, nếu chỉ vì vài bữa cơm mà giận hờn, đóng cửa với trẻ con?

Sáng hôm sau, khi tôi đang phơi đồ ngoài sân thì chị Hồng bước sang. Không như mọi ngày, chị không cười. Gương mặt chị trông khác lạ – có phần bối rối:

– Tối qua… tụi nhỏ về, đứa nào cũng mếu máo. Nó nói dì Nhi giận, không cho ăn. Tôi có rầy, bảo sao tụi con không hỏi ý dì trước, không phải cứ quen rồi là được. Mà… chị cũng xin lỗi em.

Tôi ngẩng lên, không ngờ chị lại chủ động như vậy. Cơn bức bối trong lòng bỗng tan đi một nửa.

Chị ngồi xuống chiếc ghế gỗ cũ, giọng nhẹ hơn mọi khi:

– Thiệt ra… chị cũng biết tụi nó hay qua làm phiền em. Mà mỗi lần nấu cơm, tụi nhỏ cứ chê, không chịu ăn. Chị đi làm về mệt, nhiều khi nấu xong phải dọn hết vì tụi nó bỏ. Vậy nên thấy qua bên em ăn ngon miệng, chị cũng… làm thinh.

Tôi nhìn chị. Một người phụ nữ từng khiến tôi bực bội, giờ lại ngồi đây, vừa nói vừa nghẹn. Tôi nhận ra, chị không vô tâm như tôi từng nghĩ. Có lẽ chị cũng bối rối trong vai trò làm mẹ, vừa đi làm kiếm sống, vừa nuôi dạy ba đứa con trong một xã hội đầy áp lực.

Tôi thở dài:

– Em hiểu. Nhưng chị cũng hiểu cho em. Một mâm cơm của người làm công nhân, đâu có dư dả gì. Em không tiếc đồ ăn, nhưng em sợ con mình nhìn thấy mà tủi. Nó ít nói, chứ có hôm em thấy nó để đũa xuống giữa chừng, lặng lẽ đứng dậy. Tim em đau lắm.

Chị Hồng nhìn tôi, mắt rưng rưng:

– Ừ… chị biết. Tụi nhỏ nhà chị quen được chiều, chị sai rồi. Chị không nghĩ tụi nó lại làm Bi buồn.

Chúng tôi im lặng một lúc. Những hiểu lầm, những ấm ức, từ từ tan ra trong khoảng lặng ấy.

Rồi chị nói:

– Hay vầy, chị với em chia nhau. Tuần ba bữa, chị nấu, tụi nhỏ qua em chơi rồi ăn luôn. Ba bữa kia, chị dặn tụi nó ở nhà. Còn chủ nhật thì hai nhà ăn chung – cho tụi nhỏ hiểu bữa cơm không phải cứ muốn là có, mà là chia sẻ, là biết nghĩ cho người khác.

Tôi mỉm cười. Gật đầu. Cảm thấy như trút được gánh nặng trong lòng.

Từ hôm đó, mọi thứ dần thay đổi.

Tụi nhỏ không còn chạy sang nhà tôi mỗi ngày nữa. Thỉnh thoảng vẫn qua, nhưng đã biết lễ phép hơn, biết gõ cửa và chờ được mời. Chị Hồng cũng chịu khó nấu ăn hơn, dù bận nhưng đã để tâm hơn vào bữa cơm gia đình.

Tôi bắt đầu nấu nhiều hơn một chút vào những bữa “luân phiên” mà chị Hồng nhắc đến. Nhưng lạ thay, giờ tôi không còn thấy bực bội nữa. Mỗi khi thấy tụi nhỏ ăn ngon lành, tôi lại nhớ đến Bi, nhớ ánh mắt nó lần đầu được ăn trọn quả trứng luộc mà không phải nhường ai.

Một lần, trong bữa cơm chung chủ nhật, khi tôi đang gắp miếng cá kho cho Tun thì nó bẽn lẽn nói:

– Dì ơi, tụi con cảm ơn dì. Con biết con hay qua ăn ké, mà con không biết là làm dì buồn. Con xin lỗi.

Tôi nghẹn họng. Không phải vì lời xin lỗi, mà vì giọng nói non nớt ấy đã lớn lên một chút – trong suy nghĩ, trong biết điều.

Tôi mỉm cười, xoa đầu nó:

– Dì không buồn đâu. Miễn là mấy đứa biết nghĩ, biết thương người. Dì vui rồi.

Thằng Bi ngồi bên cạnh, lần đầu tiên cũng gật đầu:

– Dì nói đúng á. Mình ăn cơm không phải chỉ để no bụng, mà để thương nhau.

Chồng tôi – anh Hải – chỉ cười khà khà, gắp thêm miếng đậu hũ. Không khí gia đình nhỏ bỗng trở nên ấm cúng lạ thường.

Chuyện một mâm cơm tưởng chừng nhỏ bé, lại chứa đựng trong đó cả nghìn sợi dây tình cảm. Từ hiểu lầm, va chạm, đến tha thứ và học cách chia sẻ.

Tôi hiểu ra rằng: một mâm cơm không chỉ là gạo, thịt, rau… mà còn là lòng người. Là trách nhiệm, là cảm thông, là cách chúng ta sống cùng nhau dưới một mái nhà, một xóm nhỏ, một đất nước.

Và đôi khi, để giữ được một mâm cơm ấm – ta cần học cách mời nhau bằng tấm lòng, chứ không phải đợi khi bụng đói.