Người ta vẫn bảo: “Đừng động vào mồ mả tổ tiên khi chưa xin phép.” Nhưng nhà ông Cảnh, giữa trưa nắng đổ lửa tháng Sáu, giữa tiếng cuốc xẻng đào xới rộn ràng, lại không ngờ thứ họ vừa đánh thức không phải chỉ là những lớp đất đá…
Xã Trung Hòa, huyện Yên Phú, tỉnh Bắc Giang – nơi đồi núi chập chùng, đồng ruộng xanh mướt, và những lăng mộ tổ tiên nằm rải rác như dấu tích xưa cũ của một thời thịnh vượng.
Gia đình ông Cảnh là một dòng họ lớn trong xã. Ngôi mộ tổ nằm trên một quả đồi thấp, bao quanh bởi rặng keo và bụi sim. Bao năm qua, mộ tổ được coi là “điểm linh” của cả dòng họ Nguyễn Văn – nơi “che chở” cho cả chục thế hệ con cháu.
Một sáng đầu hè, ông Cảnh – trưởng họ Nguyễn Văn – phát hiện trước mộ tổ có một ụ đất đùn lên, như thể có thứ gì đó từ dưới đang trồi lên. Lại gần nhìn kỹ, ông lạnh người: đó là tổ mối. Một ổ mối lớn, đất đỏ như máu, vươn cao như chiếc mũi giáo đâm lên từ lòng đất.
Ông lẩm bẩm:
– Mối đùn mả, không lành… Phải làm lễ, sửa sang lại cho tử tế kẻo có chuyện.
Ngay sau đó, ông gọi họp các chi trong dòng họ. Mọi người bàn nhau góp tiền tôn tạo lại mộ tổ – xây lại tường bao, lát gạch xung quanh, dựng bia đá mới. Người ủng hộ, người lo ngại. Chỉ có Dung – con dâu trưởng của ông Cảnh – từ đầu đến cuối buổi không nói một lời.
Dung là người gốc Hà Nội, về làm dâu đã mười năm, ai cũng khen khéo léo, nhẹ nhàng. Nhưng gần đây, Dung có vẻ bất an, hay nhìn về phía đồi mộ mỗi khi đi qua, mặt mày thất sắc.
Chồng Dung – anh Khải – hỏi:
– Em sao thế? Mấy bữa nay cứ như người mất hồn.
Dung thì thào:
– Em mơ thấy ai đó… đứng ở mộ tổ… gọi em.
Khải cười:
– Toàn mộng mị! Em đừng tin mấy thứ đó. Việc nhà họ là chuyện lớn, cứ theo ý bố anh là được.
Giờ lành vừa điểm, ba chiếc cuốc được dựng ngay ngắn trước mộ. Ông Cảnh, Khải, và chú Hựu – người lo phần đất đai – chuẩn bị phát ba nhát cuốc tượng trưng. Gió bỗng thổi mạnh dù trời quang mây tạnh. Một vài cành keo gãy rơi, quất ràn rạt vào bia mộ.
Ông Cảnh dặn:
– Mọi người im lặng. Làm lễ xong là khởi công luôn.
Ngay khi cuốc vừa chạm đất, tiếng gào thất thanh vang lên từ phía con dốc:
– Dừng lại! Đừng động vào!
Tất cả quay đầu nhìn. Dung chạy lao tới, tóc rối tung, chân đi đất, mắt đỏ hoe. Cô giằng lấy chiếc cuốc trên tay chồng, hét lớn:
– Các người không được động vào đây! Có người đang ở dưới kia! Có người… còn sống!
Ai nấy đều chết lặng. Một vài người già lắc đầu:
– Con bé điên rồi. Mộ tổ mà nói có người sống là sao?
Dung run rẩy quỳ xuống đất, chỉ tay về chỗ đất mối đùn:
– Em đã mơ thấy. Không chỉ một lần. Dưới đó… có ai đó… bị chôn khi chưa chết. Là oan hồn. Họ đang gọi em… kêu cứu…
Ông Cảnh quát lớn:
– Dung! Con làm trò gì vậy? Tránh ra!
Dung vùng dậy, nước mắt lưng tròng:
– Con xin bố. Dừng lại một ngày thôi. Cho con tìm hiểu. Con không điên… con chỉ nghe được… thấy được…
Khải giữ chặt vợ:
– Em thôi đi! Mất mặt cả họ rồi!
Nhưng một cụ già – cụ Tĩnh, gần trăm tuổi, đang ngồi ở góc – bỗng lên tiếng, giọng khàn khàn:
– Mười lăm năm trước… đêm ấy… cũng có tiếng gào như vậy…
Không ai muốn nhắc lại cái đêm mưa tầm tã năm 2010. Khi ấy, trong họ có một người con gái – tên là Hồng – bị cho là “điên dại”, hay khóc cười vô cớ, hay bỏ nhà đi lang thang. Một đêm mưa, Hồng mất tích. Ai cũng nghĩ cô trượt chân xuống suối hay bỏ đi nơi khác.
Không ai tìm ra xác. Không ai dựng mộ.
Cụ Tĩnh kể tiếp:
– Đêm đó, tôi nghe tiếng người khóc trên đồi… Hồi ấy tôi yếu, không dám lên xem. Nhưng sáng hôm sau, chỗ đó có đất mới bị xới. Tôi tưởng ai chôn chó chết…
Dung lặng người. Mắt cô đẫm nước, tay run run chỉ xuống mặt đất:
– Con không biết cô Hồng là ai. Nhưng có một người phụ nữ… mặc áo hoa… tóc dài… đêm nào cũng đến bên giường con, thì thầm rằng: “Hãy cứu tôi. Tôi chưa chết…”
Tin đồn lan nhanh khắp xã. Người tin, người cười. Nhưng lời cụ Tĩnh, cùng sự hoảng loạn thật sự của Dung, khiến không ai dám động cuốc tiếp. Ông Cảnh đành cho hoãn thi công một ngày, để “giải vía” cho chắc.
Tối đó, Dung lục tìm trong kho nhà ông Cảnh, lôi ra được một chiếc rương cũ kỹ. Trong đó là các ảnh thờ, giấy tờ cũ và một cuốn sổ tay bạc màu. Bên trong là dòng chữ nguệch ngoạc: “Hồng – 1979”.
Trang cuối cuốn sổ, nét bút như vạch máu:
“Họ sẽ chôn tôi. Tôi còn sống. Nhưng không ai tin tôi. Nếu ai đọc được dòng này… xin hãy nói cho tôi biết… tôi đã chết thật chưa?”
Sáng hôm sau, mây phủ đen trời.
Gió bấc lùa về từ phía núi Dài dù mới tháng Sáu. Ông Cảnh vừa dọn lễ cúng “giải hạn” xong thì xã cho người đến: một nhóm khảo sát từ Viện Pháp y tỉnh về kiểm tra vùng đồi theo đề nghị của Dung.
Người dân kéo lên đồi xem đông như hội. Băng đỏ được căng quanh khu mộ tổ, ba người mặc đồ trắng chuyên dụng cùng đội khai quật địa chất bắt đầu khoan nhẹ khu vực Dung đã chỉ.
Dung ngồi co ro một góc, ôm cuốn sổ tay của Hồng trong tay. Những dòng chữ xiêu vẹo vẫn ám ảnh trong đầu cô: “Tôi còn sống. Nhưng họ sẽ chôn tôi.”
Lúc 9 giờ 27 phút sáng, tiếng la bật ra từ một cán bộ pháp y:
– Có xương người. Nhưng… đây không phải hố mộ chính!
Cả đám đông như nín thở.
Chỗ đất cách mộ tổ khoảng năm mét, dưới tầng đất nông, bộ hài cốt nằm nghiêng, không có quan tài. Tay bị trói sau lưng bằng sợi thừng mục nát, phần sọ có dấu hiệu nứt, trên quần áo vẫn còn sót mảnh vải in hoa nhạt màu.
Dung nôn khan. Cô lùi lại, không dám nhìn, nhưng trong đầu vang lên tiếng ai đó gọi:
– “Dung… đừng sợ… chị đã đợi em…”
Bí mật dần hé lộ:
Khải bàng hoàng. Cả họ không ai dám nói gì. Nhưng ông Cảnh – sắc mặt trắng bệch – lẩm bẩm một câu khiến ai nấy lạnh sống lưng:
– Là áo của con Hồng… Chính tay tôi từng giữ nó khi nó phát bệnh…
Lúc ấy, Dung quay lại nhìn bố chồng, hỏi thẳng:
– Con Hồng bị làm sao? Ai đã chôn cô ấy ở đây?
Ông Cảnh ngồi sụp xuống ghế đá, mặt như tro tàn. Sau một hồi im lặng, ông thốt ra trong nước mắt:
– Hồng là con gái người anh họ tôi. Nó… từng có thai với một người đàn ông có vợ. Khi chuyện lộ ra, cả họ coi nó là vết nhơ. Nó quẫn trí, suốt ngày gào khóc, đập đầu, ăn nói nhảm… Chúng tôi nghĩ nó bị điên.
Ông hít một hơi dài, kể tiếp:
– Hôm đó… trời mưa to. Nó lên đồi khóc suốt từ chiều. Tôi lên tìm… thấy nó run rẩy bên mộ tổ. Nó kêu “đứa bé còn sống”, “tôi không muốn chết”… Tôi… tôi không biết vì sao mình lại làm thế…
Ông gào lên, nước mắt giàn giụa:
– Tôi đẩy nó. Nó đập đầu vào đá. Máu chảy… rồi nó không động đậy nữa. Tôi sợ. Tôi sai chú Hựu đào hố, chôn nó gần đó, không nói với ai…
Dung lặng người. Mọi người xung quanh thì thào:
– Cả đời không ai tìm thấy… Hóa ra là vậy…
– Trời ơi… oan hồn không siêu thoát là thật sao?
Phía pháp y kết luận ban đầu: tử thi chết do chấn thương sọ não, có dấu hiệu bị chôn sống vì trong khoang mũi, miệng có đất. Dấu vết trói tay sau lưng càng làm nghi vấn thêm nặng.
Tối hôm đó, một buổi lễ siêu độ được tổ chức trên đồi. Cả họ thắp hương cho Hồng, lập bài vị và làm lễ xin lỗi trước linh hồn người đã khuất.
Dung đứng bên mộ mới – được đắp lại cẩn thận – chắp tay vái lạy. Gió đêm lướt qua, mát lành. Tiếng ve nín lặng. Cô cảm nhận có người đứng sau mình – nhẹ nhàng, ấm áp.
Rồi một giọng nói văng vẳng, mờ nhòa:
– Cảm ơn em. Chị yên rồi…
Rồi tan vào gió.
Chỗ đất đùn hôm trước nay bằng phẳng, như chưa từng bị đào xới. Không ai giải thích được điều gì. Nhưng từ đó, những vụ mất mùa, tai nạn bất thường của họ Nguyễn Văn chấm dứt hẳn.
Dung trở thành người được kính nể trong họ. Không vì “nghe được vong”, mà vì cô dám lên tiếng, dám cứu một linh hồn – khi tất cả đều im lặng.
Một tháng sau, tại nghĩa trang xã:
Trên một tấm bia nhỏ, khắc dòng chữ:
Nguyễn Thị Hồng (1979–2010)
“Người ra đi chưa kịp nói lời cuối cùng. Nay đã được lắng nghe.”
Dung đặt đóa hoa trắng. Gió thổi nhè nhẹ. Xa xa, rặng keo rì rào như lời ru của người đã ngủ yên.