“Về già tôi không thiếu tiền, chỉ thiếu sự chân thành. Có ba mảnh đất, một quyển sổ tiết kiệm, và một tấm lòng từng thương con đến dại khờ… Giờ đây, tôi học được cách thương chính mình trước. Và cũng chính vì thế, tôi quyết định làm một chuyện mà cả làng xôn xao, con cái không ai ngờ được…”
Tôi năm nay 76 tuổi, tóc bạc từ năm 60. Góa chồng từ năm 66. Một đời lo toan, tôi có ba đứa con và ba mảnh đất – chẳng biết cái nào “quý” hơn cái nào.
Tôi không phải người giỏi nói lời ngọt ngào, nhưng ai cũng biết tôi từng vì con mà còng lưng cả đời. Chồng tôi mất vì đột quỵ sau Tết năm ấy, để lại cho tôi một khoản nợ làm ăn và ba đứa con đều đã trưởng thành.
Tôi xoay xở, bán hàng tạp hóa nhỏ lẻ, cắt tiêu từng đồng để trả nợ. Dần dà, trả xong hết, lại còn dư ra được chút tiền tiết kiệm. Mảnh đất cha mẹ chồng để lại, hai mảnh tôi tự mua sau này – đều để tên tôi.
Thời gian trôi, tôi cũng già đi, nhưng đầu óc vẫn minh mẫn, tay vẫn còn run nhưng chưa đến mức cầm đũa không nổi. Tôi vẫn nấu cơm được, tưới cây được, và… cười được.
Mỗi tháng, tôi gửi cô Lý hàng xóm 10 triệu – không phải vì tôi ngu, mà vì tôi tin cô ấy. Cô là y tá về hưu, không chồng con, sống cách tôi 3 căn nhà. Cô nấu ăn sạch sẽ, trò chuyện dịu dàng. Tôi thuê cô ấy không chỉ để có người lo cơm nước, mà còn vì có người hiểu tôi. Cái tuổi này, người già sợ nhất là… im lặng.
Các con tôi thì lại khác.
Lúc đầu, tụi nó còn gọi điện hỏi thăm, gửi biếu chút quà. Nhưng từ khi nghe tôi có ý định “làm di chúc sớm để yên lòng”, thái độ thay đổi liền.
Đầu tiên là con Lan – con gái thứ hai. Nó gọi về, ngọt xớt:
– Mẹ, con tính đón mẹ về ở với vợ chồng con. Mẹ có tuổi rồi, sống một mình sao được?
Tôi cười nhẹ:
– Tao sống một mình mười năm nay rồi, giờ mới thấy dễ thở đấy.
Rồi tới thằng Hưng, con trai cả, gọi giọng nghiêm trọng như luật sư:
– Mẹ, con thấy mẹ chi tiền thuê người ngoài vậy là không hợp lý. Người dưng làm sao bằng con ruột. Thôi mẹ đưa sổ tiết kiệm cho con giữ, có gì con thay mẹ lo.
Tôi giả ngu:
– Ủa, mà mẹ có bảo đưa ai đâu? Mẹ vẫn giữ mà?
Thằng út, Tùng, thì cộc tính hơn:
– Mẹ mà cứ tin người ngoài, sau này mất hết tài sản rồi lại than. Mẹ viết di chúc cho sớm đi, còn để tụi con biết đường mà giữ. Đừng để hàng xóm nó lừa!
Một tuần trôi qua, tôi thấy đầu mình như cái chợ. Sáng có đứa gọi, tối đứa khác nhắn. Có khi đang ăn cháo cũng phải bỏ xuống nghe điện thoại.
Tôi mệt.
Tôi không tiếc tiền – tôi tiếc cái tình.
Tôi từng nghĩ, có con thì sau này sẽ có chỗ nương tựa. Nhưng tôi nhận ra, nếu mình yếu lòng, chính mình sẽ là người bị dắt mũi. Tôi không muốn sống phần đời còn lại như cái bóng. Không muốn mỗi ngày ăn cơm lại nghe dằn vặt, trách móc, tính toán từng đồng.
Và rồi, tôi quyết định.
Tôi gọi điện cho luật sư cũ của chồng – ông Bằng. Tôi nói ngắn gọn:
– Tôi muốn làm di chúc. Nhưng không phải loại di chúc ai cũng đoán được.
Ông Bằng cười, bảo:
– Tôi chờ ngày này của bà lâu rồi. Bà cứ làm theo ý, tôi đứng tên làm chứng cho.
Sau đó, tôi gọi cô Lý. Tôi bảo:
– Chuẩn bị giúp tôi một buổi trà chiều vào chủ nhật. Tôi mời các con đến – gọi là… “tiệc chia tay hy vọng”.
Cô Lý hỏi:
– Ý gì kỳ vậy bà?
Tôi mỉm cười:
– Kỳ gì đâu. Tụi nó mong có gì để chia, tôi cho tụi nó một lần nhớ cả đời.
Chủ nhật, đúng 3 giờ chiều, cả ba đứa con của tôi có mặt đông đủ. Hưng diện sơ mi trắng, tay xách túi trái cây lớn như đi biếu sếp. Lan ôm theo hộp yến sào và bình nước yến tự nấu. Còn Tùng, vừa đến đã phụ cô Lý bưng trà, gượng gạo như thể đang cố “ghi điểm”.
Tôi ngồi ở giữa bộ trường kỷ, áo dài tím nhạt, tóc búi gọn, mặt trang điểm nhẹ. Có cả trưởng thôn và ông Bằng – luật sư – ngồi kế bên. Không khí lúc đầu ngột ngạt lắm. Chúng nó cứ nhìn nhau, đoán già đoán non.
Tôi gõ nhẹ lên tách trà.
– Hôm nay má mời các con về không phải để ăn uống gì cả. Má biết tụi con lo lắng về chuyện tài sản, về tương lai của má… Má cũng không trách. Nhưng má nghĩ đến lúc cần rõ ràng, để sau này khỏi ai phải buồn.
Thằng Hưng nhích người tới, nói ngay:
– Dạ, tụi con chỉ muốn má sống vui khỏe. Tài sản là chuyện phụ.
Tôi liếc nhìn nó, cười:
– Phụ mà con gọi điện mỗi ngày?
Không khí cứng đơ. Ông Bằng mở cặp da, rút ra một xấp giấy đã đóng dấu.
– Đây là di chúc của bà Năm, có sự chứng kiến của tôi và đại diện địa phương – ông trưởng thôn.
Tôi gật đầu.
– Đọc đi ông Bằng. Đọc lớn lên.
Ông Bằng chỉnh kính, bắt đầu:
“Tôi, Nguyễn Thị Năm, sinh năm 1949, hiện thường trú tại phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng, trong tình trạng hoàn toàn minh mẫn, tự nguyện lập bản di chúc này…”
Tôi thấy ánh mắt ba đứa con bắt đầu căng ra, miệng mím chặt.
“Thứ nhất, mảnh đất số 14 đường Lê Hồng Phong sẽ được hiến tặng cho Hội Người Cao Tuổi phường, để xây dựng Nhà sinh hoạt cộng đồng.”
Hưng cau mày.
“Thứ hai, mảnh đất số 17 đường Trưng Nữ Vương sẽ được chuyển giao cho Quỹ Học bổng Đà Nẵng – sử dụng cho việc xây dựng thư viện học sinh miền núi.”
Lan trợn mắt:
– Má? Má làm gì kỳ vậy? Đất đó giá gần 3 tỷ đó!
Tôi giơ tay:
– Im, để nghe hết.
“Thứ ba, mảnh đất cuối cùng – ở Hòa Xuân – sẽ được giữ lại, trao cho người con nào thực sự chăm sóc tôi đến cuối đời, không vì lợi ích vật chất.”
Tùng lúc này nhổm dậy:
– Má… má nói vậy là sao? Phải công bằng chứ. Ba tụi con cực khổ cả đời, giờ…
Tôi đập nhẹ xuống bàn.
– Công bằng là gì? Là chia đều cho ba đứa chỉ biết gọi điện hối má làm di chúc, hay là cho ai thật lòng quan tâm má mỗi ngày? Má không đòi hỏi tụi con phải nuôi má. Má đủ sống. Nhưng má cần tụi con thương thật, chứ không phải thương cái tài sản.
Cô Lý ngồi im, mặt ngơ ngác. Tôi quay sang cô ấy, nắm tay:
– Cô Lý không xin gì hết. Nhưng nếu mai này tôi yếu đi, không tự chăm được, cô ấy sẵn lòng lo – thì mảnh đất đó là phần thưởng.
Cả ba đứa con chết lặng.
Ông Bằng đọc tiếp:
“Sổ tiết kiệm của tôi – hiện tại hơn 1 tỷ 200 triệu đồng – sẽ được chia làm hai phần: 700 triệu gửi cho Quỹ học bổng để lập thư viện nông thôn; 500 triệu còn lại chia đều cho ba người con, mỗi người 166 triệu đồng, với điều kiện: không được sử dụng cho mục đích mua bán đất đai, đầu tư rủi ro, hoặc cho vay. Nếu vi phạm, phần đó sẽ bị thu hồi về quỹ địa phương.”
Lúc này, Lan bật dậy, mặt đỏ bừng:
– Má… má coi tụi con như kẻ ngoài sao? Sao má lại tin người dưng hơn máu mủ?
Tôi đáp tỉnh bơ:
– Má đâu có coi tụi con là người dưng. Chính tụi con đang tự biến mình thành như vậy – khi xem má là cái két sắt di động.
Không ai nói được gì. Mỗi đứa mặt như bị vỗ gáo nước lạnh. Còn tôi, tôi thấy lòng nhẹ hẫng.
Tôi đứng dậy, khép nhẹ tà áo dài, bước ra vườn sau.
Tán mai năm ngoái tôi trồng giờ đã bắt đầu ra lộc. Chim sẻ đang chuyền cành, ríu rít.
Tôi chẳng còn bao lâu trên đời này nữa. Nhưng tôi biết – ít ra từ nay – mình sống những ngày cuối đúng với lòng mình.
Ba ngày sau, cả xóm rộn ràng chuyện bà Năm “chia tài sản cho người dưng”. Có người khen, có người chê. Nhưng ai cũng công nhận: bà Năm… không hề dại.
Ba năm sau, tôi mất.
Lễ tang tôi đơn giản, nhưng đông người đến tiễn. Cô Lý bưng bát cháo, đặt trước bàn thờ, khóc lặng lẽ. Ba đứa con đứng lặng lẽ một góc, không dám nhìn ai. Có đứa trẻ trong xóm chạy qua thì thầm:
– Mẹ nói bà Năm là người già giàu mà tử tế nhất xóm. Chắc bà đi thiên đường rồi.
Tôi nghĩ, chắc vậy.
Vì cuối cùng, tôi đã sống… một cuộc đời biết thương mình.