Mẹ chồng tôi nhập viện nằm phòng cấp cứu đặc biệt suốt 9 năm trời nhưng vợ chồng anh cả từ chối phụng dưỡng và chia đôi chi phí vì ‘quá tốn kém

Mẹ chồng tôi nằm phòng cấp cứu suốt 9 năm, anh cả không góp một đồng, đến lúc chia tài sản tôi chết lặng vì… quyển sổ tiết kiệm”


Ai cũng bảo tôi “ngu” khi rút hết vàng cưới, bán cả mảnh đất bố mẹ đẻ cho làm của hồi môn chỉ để lo cho mẹ chồng ốm nằm một chỗ. Người ta cười mỉa:
“Đến con ruột bà còn không lo, cô tưởng cô là ai?”
Tôi chỉ cười buồn, nghĩ đơn giản: “Bà là mẹ của chồng tôi, không lo thì ai lo?”
Nhưng cái ngày bà gọi các con về chia tài sản… tôi đã chết lặng.

Tôi lấy chồng khi mới 26 tuổi. Chồng tôi – anh Hưng – là con trai út trong một gia đình thuần nông ở Hưng Yên. Gia đình chồng có 2 anh em: anh cả là Việt – dân kinh doanh tự do, sống ở Hà Nội với vợ và hai con; còn vợ chồng tôi sống chung với mẹ trong căn nhà cấp 4 ở quê.

Ban đầu, tôi cứ nghĩ sống cùng mẹ chồng sẽ khó khăn, nhưng bà là người hiền hậu, ít nói, lại thương con cháu. Bà từng bảo:

“Mẹ chẳng mong gì, chỉ mong hai con yêu thương nhau, có rau ăn rau có cháo ăn cháo.”

Cuộc sống yên bình kéo dài không lâu. Chỉ 2 năm sau cưới, mẹ chồng tôi lên cơn đột quỵ đầu tiên. Sau vài ngày cấp cứu, bác sĩ nói: “Nếu gia đình muốn kéo dài thời gian sống, phải chăm sóc lâu dài. Tình trạng có thể tiến triển xấu bất kỳ lúc nào.”

Từ ngày đó, tôi chính thức làm “y tá bất đắc dĩ”. Bà không thể tự ăn, không tự đi lại. Vợ chồng tôi đưa bà lên tuyến tỉnh điều trị rồi chuyển về một bệnh viện tư có phòng chăm sóc đặc biệt theo lời khuyên của bác sĩ.

Chi phí mỗi tháng dao động từ 15-18 triệu – vượt quá thu nhập hai vợ chồng làm công nhân và buôn bán vặt.

Tôi đánh liều mang bán đôi hoa tai vàng 24K bố mẹ tặng ngày cưới, rồi lần lượt là sợi dây chuyền, nhẫn cưới, cả cuốn sổ tiết kiệm hai vợ chồng tích góp 5 năm trời.

Tôi ngại, nhưng vẫn gọi cho anh Việt – anh chồng cả – nhắn nhủ:

“Anh chị nếu không trông được thì hỗ trợ chi phí giúp em. Dù sao cũng là mẹ chung.”

Anh ấy chỉ trả lời:

“Anh chị không dư dả. Em có hiếu thì em lo. Mẹ ốm 9 năm, chứ sống thêm 9 năm nữa thì bán cả nhà cũng không đủ tiền.”

Lúc đó tôi ứa nước mắt. Chồng tôi – dù thương mẹ – nhưng biết tính anh cả nên cũng chỉ nói:

“Thôi em ạ. Mình còn mẹ ngày nào thì cố ngày ấy.”

Mẹ chồng tôi yếu dần, gần như hôn mê suốt. Có những tháng vợ chồng tôi chỉ đủ tiền viện phí mà không đủ mua sữa cho con nhỏ. Tôi đành gửi con về ngoại nhờ chăm sóc một thời gian. Hỏi chồng có tiếc gì không, anh lắc đầu:

“Chỉ mong mẹ đi thanh thản. Em đã vất vả vì nhà anh quá nhiều rồi.”

Thế rồi một hôm bất ngờ, bà tỉnh táo lạ thường. Bác sĩ cũng bất ngờ. Bà bảo muốn gặp các con. Tôi gọi anh Việt, báo anh về. Vợ anh ấy đắn đo:

“Thôi… bà có gì mà chia chác đâu. Anh về cho có mặt thôi.”

Trưa hôm đó, bà ngồi dậy, gọi các con lại, lấy ra một phong bì thư. Bên trong là tờ di chúc viết tay, có xác nhận của bệnh viện.

“Nhà này mẹ cho vợ chồng thằng Việt, dù gì sau này các cháu lớn ở phố cũng cần nhà dưới quê về ở chơi. Còn đây là sổ tiết kiệm mẹ để lại cho thằng Hưng và con dâu.”

Tôi run tay mở phong bì. Trên bìa là sổ tiết kiệm mang tên bà, ghi rõ số dư: 35.000.000 đồng. Tôi nghẹn họng, nước mắt rơi lã chã.

9 năm chăm mẹ, đổi lại là 35 triệu. Anh Việt ngồi cười khẩy, nói với vợ:

“May mà mẹ còn có chút sổ, chứ không lại bảo mình tham lam.”

Tôi nắm tay mẹ, cười gượng:

“Con cảm ơn mẹ. Bao nhiêu cũng quý, miễn mẹ thanh thản là được.”

Sau hôm đó 3 ngày, mẹ mất. Vợ chồng tôi lo tang lễ chu đáo, thậm chí còn phải vay mượn để làm mâm cơm cúng đầy đủ. Vợ chồng anh cả đến hôm đầu rồi về Hà Nội ngay, viện lý do công việc.

Khi đưa mẹ ra đồng, lòng tôi nhẹ tênh. Không còn nặng vì hy vọng được “đền đáp”, chỉ mong mẹ nơi xa biết rằng tôi đã cố gắng hết sức.

7 ngày sau đám tang, tôi quyết định mang sổ tiết kiệm đi rút tiền để trả nợ lễ tang và gửi con đi học lại.

Vừa bước vào ngân hàng, nhân viên tiếp tân đã cúi chào lễ phép:

“Chị là con bà Nguyễn Thị Tư? Mời chị vào phòng đặc biệt. Giám đốc đang chờ.”

Tôi ngơ ngác nhìn chồng. Anh cũng bất ngờ không kém. Cầm sổ, tôi lắp bắp:

“Tôi chỉ muốn rút 35 triệu thôi… Chắc có gì nhầm rồi?”

Nhân viên ngân hàng mỉm cười, đưa tôi một bảng kê chi tiết. Tôi nhìn, tim đập loạn:

Sổ tiết kiệm: 35 triệu – là sổ phụ, chỉ để đánh dấu. Số tiền thực gửi theo hợp đồng niêm phong riêng: 2,3 tỷ đồng. Người thụ hưởng: Nguyễn Thị Mai – tức tôi.

Tôi run rẩy đọc lại. Chồng tôi mặt tái mét. Giám đốc ngân hàng xác nhận:

“Trước lúc bà cụ nhập viện, bà đã gửi nhiều sổ, yêu cầu niêm phong và chỉ trao cho đúng người theo chỉ định, kèm thư tay.”

Tôi ngồi lặng, tay run run mở phong thư nhỏ đính kèm:

“Con dâu út,
Mẹ biết con là người không máu mủ nhưng có tấm lòng hơn cả ruột thịt.
9 năm qua, mẹ chỉ giả nghèo, để thử lòng người.
Căn nhà mẹ cho anh cả, nhưng nhà đất mẹ đứng tên, không sổ hồng. Mẹ để lại phần thực sự cho con – người con duy nhất không đợi phần.”

Tôi ngồi lặng đi sau khi nghe giám đốc ngân hàng xác nhận số tiền trong sổ tiết kiệm thực tế là hơn 2,3 tỷ đồng, chưa kể một hợp đồng gửi tiết kiệm định kỳ khác trị giá 400 triệu đồng – cũng mang tên tôi là người thụ hưởng.

Tôi không hiểu, mẹ chồng tôi lấy đâu ra ngần ấy tiền? Bao năm nay, bà sống tiết kiệm, thậm chí có lúc phải dùng đồ cũ. Nhưng rồi tôi chợt nhớ: thời trẻ, bà từng có vài sào ruộng được đền bù đất làm khu công nghiệp. Bà từng nhận khoản tiền lớn nhưng chỉ nói mơ hồ “gửi tiết kiệm làm vốn phòng thân”.

Không ai ngờ, bà đã dùng chính số tiền đó để “thử lòng con cái” như lời bà viết trong thư:

“Mẹ không có học cao, nhưng mẹ biết ai thương mẹ thật lòng. Mẹ không cần con cái nuôi mẹ bằng tiền, mẹ cần con người. Anh cả giỏi làm ăn, nhưng sống buông xuôi. Con dâu út – con đã dạy mẹ tin vào tình thương không máu mủ.”

Chiều hôm đó, vợ chồng tôi về quê. Chồng tôi suốt chặng đường không nói câu nào, chỉ cầm tay tôi thật chặt. Anh bảo:

“Nếu mẹ không làm vậy, có lẽ suốt đời anh mang mặc cảm để vợ khổ.”

Tôi vẫn chưa kịp hoàn hồn thì tối đó, anh Việt gọi điện, giọng nhát gừng:

“Có chuyện gì không? Sao ngân hàng báo mẹ để lại tiền cho cô?”

Tôi im lặng vài giây rồi chỉ đáp:

“Số tiền là của mẹ. Mẹ có quyền để lại cho ai bà muốn.”

Anh cáu gắt:

“Nhưng nhà này là nhà tổ tiên, mẹ không thể cho riêng tôi còn tiền thì dồn hết cho cô được.”

Tôi vẫn giữ giọng nhẹ nhàng:

“Anh, 9 năm qua, chúng tôi không hỏi một đồng. Anh cũng chưa từng hỏi mẹ cần gì. Giờ mẹ mất rồi, anh còn muốn đòi gì nữa?”

Chồng tôi giật lấy điện thoại, nói thẳng:

“Anh nghĩ lại đi. Em và Mai đã bán cả đất của bố mẹ vợ để lo cho mẹ. Giờ mẹ để lại bao nhiêu, tụi em cũng không thấy đủ.”

Điện thoại bên kia cúp ngang. Từ hôm đó, nhà anh cả cắt đứt liên lạc.

Vài ngày sau, vợ chồng anh cả bất ngờ kéo về quê, mang theo luật sư. Họ yêu cầu kiểm tra lại sổ đỏ ngôi nhà cũ của mẹ – nơi hiện giờ đang bỏ trống – với lý do “muốn bán chia đôi”.

Tôi cười nhạt. Vì trong phong thư thứ hai mẹ để lại trong két sắt, có bản di chúc mới nhất (có công chứng) ghi rõ:

“Ngôi nhà hiện tại mẹ để lại cho anh cả nhưng chỉ là quyền sử dụng tạm. Nếu trong vòng 3 năm anh không sửa sang, không về quê chăm sóc hương khói thì nhà sẽ thuộc về vợ chồng Hưng Mai – người trực tiếp chăm sóc mẹ những năm cuối.”

Tôi đưa ra bản di chúc đó. Vợ chồng anh cả chết lặng. Họ đành kéo nhau ra về, miệng vẫn lẩm bẩm “mẹ thiên vị… mẹ bất công…”

Sau khi trừ nợ nần, vợ chồng tôi còn giữ lại được gần 2 tỷ đồng, vừa đủ mua một căn nhà nhỏ ở thị xã, đón con về ở cùng, cho bé đi học lại. Tôi cũng mở một tiệm tạp hóa nhỏ tại nhà để tự chủ kinh tế.

Chúng tôi vẫn giữ lại ngôi nhà cũ, mỗi dịp giỗ tết đều về thắp hương mẹ. Không một lời oán trách, không một tiếng khoe khoang.

Một hôm tôi gặp một người hàng xóm cũ – bà cụ sống sát nhà mẹ chồng – bà bảo:

“Hôm bà cụ tỉnh lại, tôi ngồi cạnh nghe hết. Bà ấy bảo chỉ tiếc một điều… là không còn sống đủ lâu để nhìn con dâu út được sung sướng.”

Tôi cười mà mắt đỏ hoe.

Câu chuyện của tôi không phải để kể công, càng không phải để hả hê vì “được chia nhiều tiền”. Mà là để nhắc nhở nhau rằng:

  • Phụng dưỡng cha mẹ không phải trách nhiệm riêng của ai, càng không phải phép thử.

  • Đừng đợi tới lúc người mất rồi mới bắt đầu so đo, bởi khi ấy, mọi đền bù đều trở nên vô nghĩa.

  • Con cái không nên tính phần, mà nên sống có tình. Bởi có khi người chẳng máu mủ lại là người đưa ta một cuộc đời mới.