Tôi lên thành phố rửa bát th;uê cho quán phở hi vọng đổi đời, được 6 tháng thì tôi quen một đại gia hơn 20t là khách quen của quán. Ông ta ngọt nhạt: “Đ/ẻ cho anh lấy 1 thằng con trai nối dõi, em sẽ có 3 t;ỷ, tha hồ làm lại cuộc đời”. Ngày tôi ch;uyển d;ạ cũng là ngày ông ta…

Tôi tên là Hương, năm nay 22 tuổi. Quê tôi ở một huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa – nghèo, heo hút, khô cằn như chính những ước mơ chưa kịp chớm đã héo úa của tôi. Sau khi học hết lớp 12, tôi không thi đại học mà chọn ở nhà làm ruộng cùng mẹ. Ba tôi bỏ đi từ năm tôi 10 tuổi, để lại mẹ con tôi sống nương tựa vào nhau. Cuộc sống cứ thế trôi đi, lặng lẽ và bế tắc.

Một ngày tháng Giêng năm ngoái, sau trận lụt cuốn mất cả mùa màng, tôi quyết định khăn gói ra Hà Nội làm thuê. Tôi xin vào một quán phở ở quận Cầu Giấy – không bảng hiệu, chỉ là quán bình dân nằm trong con ngõ nhỏ nhưng rất đông khách, đặc biệt là vào sáng sớm. Công việc của tôi là rửa bát, lau dọn, lâu lâu bưng bê khi thiếu người. Cả ngày tay chân ngập trong nước lạnh, mùi nước rửa chén hắc đến nhức đầu, nhưng mỗi tháng được 5 triệu đồng, ăn ở tại chỗ, tôi vẫn thấy còn hơn ở quê bấp bênh.

Thấm thoắt cũng 6 tháng. Tôi sống khép mình, ít nói, cố làm cho thật tốt để không ai than phiền. Cho đến một buổi sáng mưa phùn, lúc tôi đang lúi húi rửa bát thì chị chủ quán hối hả gọi: “Hương! Lên bê hai tô phở bàn số 6!”. Tôi lau tay, chạy vội lên thì thấy một người đàn ông trạc 45 tuổi, vest sẫm màu, giày da bóng loáng, đang ngồi nhẩn nha lướt điện thoại. Ánh mắt ông ta nhìn tôi không giống những khách quen bình thường – nó dừng lại hơi lâu, như dò xét, rồi nhếch môi cười một cái nhẹ tênh.

Từ hôm đó, ông ta đến ăn gần như mỗi sáng. Chị chủ bảo: “Đại gia đấy! Nghe đâu làm bất động sản, có cái nhà to như biệt thự ở Tây Hồ. Ly dị vợ lâu rồi, giờ sống một mình”. Mỗi lần tôi bưng phở lên, ông ta đều gọi thêm tôi một ly trà đá, hỏi tôi vài câu vẩn vơ: “Quê em ở đâu? Lên đây lâu chưa? Có người yêu chưa?”. Ban đầu tôi thấy lạ và có phần sợ, nhưng dần dà, ông ta tỏ ra lịch sự, tử tế, nên tôi cũng bớt dè chừng. Ông tên Dũng.

Một hôm, ông ngồi nán lại đến gần trưa, khi quán đã vãn khách. Tôi đang dọn thì ông bước lại, nhẹ nhàng nói: “Anh muốn mời em đi ăn trưa. Chỉ là ăn trưa thôi, không có gì đâu, anh hứa.” Tôi bối rối. Tôi chưa từng đi đâu với đàn ông lạ. Nhưng không hiểu sao lúc đó tôi gật đầu.

Chúng tôi đến một nhà hàng buffet gần Hồ Tây. Tôi ăn dè dặt, còn ông liên tục gắp cho tôi những món ngon, gọi nước trái cây, kể chuyện đời. Cách ông nói chuyện cuốn hút, từ tốn – rất khác những người đàn ông tôi từng gặp ở quê hay trong khu nhà trọ công nhân gần quán. Cuối bữa, ông nhìn tôi, mắt đăm đăm:
“Em còn trẻ, nhưng cuộc sống này không dễ. Anh có một lời đề nghị… hơi kỳ quặc, nhưng nếu em đồng ý, em sẽ đổi đời.”

Tôi ngơ ngác. Ông tiếp:
“Anh cần một đứa con trai nối dõi. Chỉ cần em sinh cho anh một đứa bé – là trai – thì anh sẽ cho em ba tỷ. Không ràng buộc, không hôn thú. Em sẽ là mẹ đứa bé, anh sẽ lo cho nó. Còn em, sau này đi đâu, làm gì… tùy.”

Tôi sững sờ. Đầu tôi quay cuồng. Ba tỷ? Với tôi lúc đó, nó như từ hành tinh khác rơi xuống.

Ông thấy tôi im lặng, bèn nói: “Anh không ép. Em cứ suy nghĩ. Nếu không muốn, coi như chưa từng nghe.”

Tôi trở về quán trong trạng thái hoảng loạn. Đêm đó tôi không ngủ. Tôi nghĩ đến mẹ – người đang yếu dần vì bệnh thấp khớp, thuốc men đắt đỏ. Tôi nghĩ đến căn nhà rách nát, tường ẩm mốc ở quê. Nghĩ đến cảnh mình cứ sống mãi như thế này – rửa bát, lưng còng, da nhăn – đến năm 30 tuổi vẫn trắng tay.

Một tuần sau, tôi gọi cho ông Dũng.

“Em đồng ý. Nhưng em phải chắc, ba tỷ là thật.”

Ông cười khẽ qua điện thoại: “Em yên tâm. Trước khi mang thai, anh sẽ chuyển trước một phần, còn lại chia theo tiến độ.”

Chúng tôi ký hợp đồng tay trên một tờ giấy ông thuê luật sư soạn. Ông đưa tôi đến một căn hộ cao cấp để “nghỉ dưỡng” trong thời gian mang thai. Tôi nghỉ việc ở quán phở – viện lý do mẹ ốm, cần về quê. Không ai nghi ngờ.

Ba tháng sau, tôi có thai. Ông thuê bác sĩ riêng khám mỗi tháng, siêu âm kỹ càng. Đến tuần thứ 16, khi biết giới tính đứa bé là trai, ông cười lần đầu đầy mãn nguyện: “Con tôi rồi. Tốt lắm.”

Tôi sống những tháng sau đó trong lặng lẽ. Không có tình yêu, chỉ là trao đổi. Nhưng tôi tự nhủ: “Không sao. Sau này con lớn, mình sẽ kể cho nó sự thật. Mẹ đã hy sinh vì nó, vì bà ngoại. Và vì chính cuộc sống của mẹ.”

Tháng thứ tám, bụng tôi lớn vượt mặt, đi lại nặng nề. Tôi viết nhật ký mỗi tối, đặt tên cho con: “Nam”. Tôi muốn nó mạnh mẽ, đàng hoàng, không giống cha nó – người dùng tiền để mua máu mủ.

Và rồi, sáng ngày tôi chuyển dạ – cũng là ngày ông Dũng đột ngột… mất tích.

Tôi đau bụng từ 5 giờ sáng. Những cơn co thắt nhói lên từng đợt, khiến tôi khụy xuống ngay giữa hành lang chung cư. Tôi bấm gọi ông Dũng, liên tục. Nhưng điện thoại chỉ báo “Thuê bao quý khách hiện không liên lạc được.”

Lạ. Ông chưa từng tắt máy suốt 7 tháng qua. Tôi hoảng. Không còn cách nào, tôi gọi taxi đến bệnh viện phụ sản Hà Nội. Vừa vào phòng chờ sinh, tôi gọi cho anh tài xế riêng của ông – người vẫn chở tôi đi khám định kỳ. Anh ta cũng không nghe máy. Tôi nhắn tin, cầu cứu… không ai hồi âm.

Tôi sinh vào lúc gần trưa. Một bé trai, nặng 3,2kg, khỏe mạnh. Tôi ôm con, nước mắt rơi lã chã. Cảm giác thiêng liêng và đau đớn hòa làm một – không vì tôi làm mẹ, mà vì tôi đã chính thức bước vào một ngã rẽ không đường lui.

Sau sinh ba ngày, tôi rời bệnh viện. Về lại căn hộ thuê, tôi thấy nó đã bị khóa trái, thẻ ra vào bị vô hiệu hóa. Không thể tin nổi. Tôi gọi đến công ty quản lý tòa nhà – họ bảo “Chủ căn hộ đã kết thúc hợp đồng. Người tên Dũng không còn đăng ký tại đây.”

Tôi tìm đến văn phòng công ty bất động sản nơi ông từng khoe là giám đốc – chỉ thấy một bảng hiệu phủ bụi, cửa đóng then cài. Tôi bắt đầu sợ.

Tôi đem giấy “hợp đồng tay” đến công an phường. Họ nhìn qua, lắc đầu: “Không có công chứng. Không có nhân chứng. Thậm chí không rõ tên thật hay giả. Cô bị lừa rồi.”

Tôi bàng hoàng. Bao nhiêu đêm tôi ôm bụng nghĩ về cuộc đời mới, căn nhà mới, khoản tiền ba tỷ – bây giờ chỉ còn lại tiếng khóc của con giữa căn phòng trọ bé xíu, hôi mùi ẩm mốc.

Tôi quay về quê. Mẹ nhìn tôi, sửng sốt: “Mày… sao lại có con? Bố đứa bé đâu?”
Tôi không nói. Tôi không thể. Làm sao để kể chuyện mình bán thân mang thai vì ba tỷ đồng? Làm sao nói rằng người cha của con đã bốc hơi khỏi thế giới như chưa từng tồn tại?

Ở quê, họ bàn tán. Hương đi làm thuê chưa đầy năm đã về với cái bụng chửa, không chồng, không cưới hỏi. Mẹ tôi không đủ sức để bảo vệ tôi khỏi miệng đời. Bà chỉ im lặng, khóc, và lo cho cháu ngoại từng miếng sữa.

Hai tháng sau, một người quen cũ ở quán phở nhắn tin:
“Hương! Có phải ông Dũng em quen từng ăn ở quán tụi chị? Ảnh đang bị tố lừa đảo hàng chục tỷ. Lên báo rồi đó!”

Tôi run rẩy mở báo. Một bài viết:
“Ông D.T.D – từng là giám đốc công ty bất động sản T.T – bị tố lừa đảo chiếm đoạt tài sản, sử dụng giấy tờ giả để vay nợ, lừa tình – tiền nhiều phụ nữ ở Hà Nội và Hải Phòng.”

Tôi kéo xuống. Bức ảnh đính kèm – đúng là ông Dũng, nhưng tên thật là Đặng Tuấn Dương, sinh năm 1972, từng bị phạt án treo vì làm giả giấy tờ đất. Từ năm 2019, ông ta đổi tên, di chuyển qua hàng loạt căn hộ thuê, và hành tung đầy bí ẩn.

Cảnh sát đang truy tìm. Tôi nhìn mặt ông ta, lòng quặn lên – không phải vì tình, mà vì nhục nhã. Tôi là một trong những “nạn nhân” – nhưng tôi lại không biết rõ tên thật của kẻ đó, không có bằng chứng gì ngoài một tờ giấy viết tay không pháp lý.

Tôi suy sụp.

Tháng sau, tôi quyết định lên Hà Nội lại. Không phải để đòi tiền – tôi biết điều đó là vô vọng. Tôi muốn tìm lại chính mình. Tôi xin làm phụ bếp ở một quán ăn nhỏ trong khu tập thể cũ. Ngày làm, tối về trọ – tôi bế bé Nam theo. Có hôm phải bế vừa bế con vừa nấu, chủ quán thương nên sắp xếp cho tôi làm theo ca.

Tôi cũng tìm đến một văn phòng luật sư, kể lại toàn bộ. Luật sư tên Tâm – một người phụ nữ ngoài 40, trầm lặng, nghe tôi xong thì nói:
“Em bị lừa, đúng. Nhưng nếu em muốn kiện, chị có thể hỗ trợ viết đơn trình báo, gửi hồ sơ – dù khả năng đòi lại tiền là rất nhỏ. Nhưng ít nhất… em có thể giành quyền bảo vệ con mình. Em cần sự danh chính.”

Tôi gật. Đó là lần đầu tôi nói tên thật của ông ta ra thành tiếng, ghi rõ mọi chi tiết ký ức.

Một năm sau, cảnh sát báo: ông ta đã bị bắt ở biên giới, đang chuẩn bị trốn sang Lào. Trong danh sách bị hại, có tên tôi – nhưng họ nói: “Ông ta phủ nhận chuyện thuê đẻ. Không có chứng cứ. Nhưng nếu cô muốn xác nhận con trai là con ông ta, có thể xét nghiệm ADN.”

Tôi đồng ý. Một tháng sau, kết quả: 99,99% là cha con.

Tôi không đòi ba tỷ. Tôi không đòi trợ cấp. Tôi chỉ yêu cầu tòa án ghi nhận danh tính cha đứa trẻ – không phải để tôi được gì, mà để con trai tôi có quyền biết mình là ai.

Giờ đây, tôi đã 24 tuổi. Bé Nam hơn 2 tuổi, thông minh, nhanh nhẹn, thích đọc sách tranh và nghịch vòi nước. Tôi vẫn thuê nhà trọ, vẫn đi làm thuê, nhưng không còn cúi đầu.

Tôi từng mơ ba tỷ sẽ đổi đời mình. Giờ thì không. Tôi không cần ba tỷ.
Tôi chỉ cần một mình – và con tôi – sống tử tế, từng ngày.

Một đời người có thể lấm lem, nhưng tôi tin: nếu có thứ gì sáng rỡ thật sự, thì đó không phải tiền… mà là ánh mắt trong veo của một đứa trẻ gọi tôi:
“Mẹ ơi!”