35 tuổi chưa có chồng, một lần cho ông cụ ă/n m//ày vào lán mình trú mưa thì bất ngờ nhận được…

“35 tuổi chưa có chồng, một lần cho ông cụ ăn mày vào lán mình trú mưa, thì bất ngờ nhận được…”

Tôi tên là Lan. Năm nay tôi 35 tuổi, giáo viên tiểu học ở một trường làng thuộc vùng trung du Bắc Bộ. Cuộc sống trôi qua bình lặng như bao người phụ nữ khác ở quê, chỉ khác là… tôi vẫn chưa có chồng.

Không phải tôi kén chọn, cũng chẳng phải tôi không tin vào tình yêu. Chỉ là, cái duyên nó chưa tới. Nhiều lần mẹ tôi nhìn tôi thở dài, bạn bè thì hoặc đã bận rộn con cái, hoặc cũng bỏ xứ mà lên thành phố. Tôi thấy mình như một cái cây mọc chậm giữa cánh rừng đã vào mùa lá đâm chồi.

Chiều hôm ấy, trời chuyển giông. Tôi đang đạp xe từ trường về, thì mưa đổ ào xuống. May mắn, tôi cách nhà chỉ khoảng hai cây số, bên vệ đường có một cái lán bỏ hoang của người dân dựng để làm đồng, tôi nhanh chóng tấp vào trú mưa.

Lán gỗ cũ kỹ, dột vài chỗ, nhưng vẫn còn chắc chắn. Tôi dựng xe, gạt những giọt nước lạnh bám trên mặt, thì thấy từ xa, một bóng dáng lom khom đi tới.

Đó là một ông cụ. Trên người cụ là chiếc áo mưa mỏng tang, rách rưới. Đôi mắt đục ngầu nhưng sáng lên khi thấy có người trong lán.

Tôi thoáng do dự, nhưng rồi nhích người ra, gọi:

– Cụ vào trú đi, mưa lớn lắm!

Ông cụ chắp tay cảm ơn, run rẩy bước vào. Gần hơn, tôi thấy cụ gầy gò, khắc khổ. Mùi bùn đất lẫn mùi cơ thể cũ kỹ bốc lên nồng nặc. Cụ ngồi nép sát mép lán, có vẻ ngại làm phiền.

Tôi lục trong túi xách, lấy ra chiếc bánh mì và hộp sữa tôi hay mang theo cho học trò kém ăn:

– Cụ ăn đi, đỡ đói.

Cụ nhìn tôi rất lâu, ánh mắt lạ lắm – vừa cảm động, vừa như nhận ra điều gì đó thân quen. Cụ lắp bắp:

– Cô… tốt quá… cảm ơn cô… cô Lan phải không?

Tôi giật mình. Làm sao ông biết tên tôi?

Tôi dè dặt gật đầu.

– Cụ biết tôi?

Ông cụ mỉm cười, cắn miếng bánh rồi nói trong nghẹn ngào:

– Tôi từng… từng biết mẹ cô. Mấy chục năm trước, tôi đi lính chung với ba cô. Tôi… tôi nợ gia đình cô một món nợ lớn lắm…

Mưa vẫn rơi đều. Câu nói của cụ khiến tôi bối rối. Tôi chưa từng nghe mẹ nhắc về ai như vậy.

– Mẹ tôi mất năm tôi 20 tuổi rồi cụ ạ. Còn bố thì tôi chưa từng gặp mặt…

Cụ gật đầu, đôi mắt trũng sâu long lanh nước.

– Phải… vì tôi là người đã chứng kiến cái đêm ông ấy hy sinh…

Tôi chết lặng.

Tôi không biết vì sao, nhưng những lời của cụ như một sợi chỉ kéo quá khứ hiện về. Bao năm nay, mẹ tôi luôn lảng tránh khi tôi hỏi về bố. Bà chỉ bảo: “Bố con đi xa mãi rồi.” Không di ảnh, không giấy báo tử. Chỉ có một chiếc nhẫn cưới cũ bà giữ kỹ trong chiếc hộp gỗ.

Cụ tiếp lời, chậm rãi:

– Ngày đó, ở chiến trường Quảng Trị, đơn vị tôi và ba cô cùng chốt giữ một đồi nhỏ. Một lần, khi quân địch nã pháo bất ngờ, ông ấy đã đẩy tôi ngã xuống hầm, còn mình thì… trúng mảnh pháo… Tôi tỉnh dậy, ông đã nằm im, người bê bết máu…

Cụ ngưng lại, rồi móc trong túi áo một vật nhỏ, bọc trong tấm vải cũ kỹ. Cụ đưa cho tôi:

– Tôi giữ thứ này mấy chục năm. Là của ông ấy, nhờ tôi mang về cho mẹ cô… Nhưng tôi không có can đảm… không dám đối diện với người ở hậu phương…

Tôi run tay mở ra. Là một bức thư đã úa màu, cùng một tấm ảnh chụp chung của hai người – mẹ tôi và một người đàn ông cao lớn, mặc quân phục, nụ cười tươi rói. Tôi nhận ra nụ cười ấy… tôi đã thấy nó trong gương suốt 35 năm qua.

Tôi bật khóc.

Mưa dần tạnh. Gió cuốn qua, mang theo mùi cỏ ướt, và cả mùi quá khứ mờ nhạt.

Ông cụ nhìn tôi, nói khẽ:

– Cô có thể cho tôi về nhà cô không? Tôi chỉ muốn… được làm nốt điều cần làm.

Tôi gật đầu.

Tôi không biết điều gì đang chờ ở phía trước, nhưng tôi hiểu: cuộc đời tôi sắp thay đổi.

Tôi đưa ông cụ về nhà. Căn nhà nhỏ nơi tôi sống một mình hơn mười năm bỗng chốc trở nên ấm hơn vì có tiếng bước chân khác, tiếng thở già nua nhưng hiền hậu của cụ ông đã già, nhưng ánh mắt vẫn giữ nguyên sự trong sáng, tử tế.

Sau bữa cơm chiều đơn giản, tôi pha ấm trà nóng rồi mời cụ ngồi nói chuyện. Tấm ảnh và lá thư cụ đưa vẫn nằm trên bàn. Tôi nhìn chúng, rồi nhìn ông, lòng tràn ngập những câu hỏi.

– Cụ… sau chiến tranh, cụ làm gì?

– Tôi đi khắp nơi, chẳng còn ai thân thích. Cảm giác như sống nốt những năm tháng thừa ra của một người đã đáng lẽ phải chết từ mấy chục năm trước…

Cụ ngập ngừng.

– Tôi sống bằng nghề nhặt ve chai, làm thuê. Cũng từng định đến tìm mẹ con cô. Nhưng tôi nhát gan. Tôi nghĩ bà ấy sẽ oán trách tôi… vì đã để người đàn ông mình yêu bỏ mạng nơi chiến trường.

Tôi lặng im. Làm sao tôi có thể trách một con người mang trong lòng cả đời một gánh nặng như thế?

– Cụ tên gì?

– Tôi tên là Thịnh. Ngày đó, trong đơn vị gọi tôi là Thịnh “mọc râu”, vì tôi già hơn các anh em một tuổi, lại hay lo xa. – Cụ cười.

Tôi nhìn vào ánh mắt cụ Thịnh, không còn là sự lạ lẫm. Có điều gì đó rất thân quen. Như thể ông là một phần còn thiếu trong bức tranh gia đình tôi từ bao lâu nay.

Mấy ngày sau, cụ Thịnh ở lại nhà tôi. Tôi sắm cho cụ bộ quần áo mới, đưa đi cắt tóc, dọn dẹp lại chiếc phòng trống. Cụ cảm động đến mức suýt khóc khi được ăn bữa cơm nóng trong nhà.

Một buổi sáng, cụ lặng lẽ đưa tôi một xấp giấy tờ cũ kỹ. Là một cuốn sổ tay, bên trong là ghi chép tỉ mỉ về các trận đánh, tên các đồng đội đã hi sinh, và… một cái tên được gạch đậm: Nguyễn Văn Hùng – hy sinh ngày 14/9/1974. Gửi lại thư và ảnh cho người thân.

Tôi nghẹn ngào. Cái tên ấy – tôi chưa từng được nghe mẹ nhắc đến. Nhưng giờ tôi đã biết. Đó là cha tôi.

– Sau trận đó, đơn vị rút quân gấp, không kịp đưa hài cốt về. Tôi cùng vài người chôn cất sơ ông ấy bên triền đồi. Nhưng đến nay… tôi nghĩ mình có thể quay lại đó, dẫn cô đi – cụ Thịnh nói.

Tôi rưng rưng. Bao năm sống trong sự thiếu vắng, tôi chưa từng nghĩ mình sẽ có cơ hội biết nơi cha nằm xuống.

Một tháng sau, tôi xin nghỉ phép, cùng cụ Thịnh vào Quảng Trị.

Chuyến đi đó là bước ngoặt đời tôi.

Chúng tôi tìm đến ngọn đồi mà cụ nhớ. Nhờ chính quyền địa phương và sự xác nhận từ hồ sơ cũ, chúng tôi xác định được mộ cha. Dù chỉ là nắm đất cũ, không tên tuổi, nhưng tôi đã thắp hương, khấn cha trong nước mắt:

– Con đến rồi, bố ơi…

Cụ Thịnh đứng phía sau, lặng lẽ khóc. Tôi biết, trong giây phút ấy, ông không chỉ là người đồng đội của cha, mà còn là người gác giữ một phần lịch sử, một phần gia đình tôi.

Khi trở về quê, có một chuyện khiến tôi không ngờ…

Cụ Thịnh đưa tôi một phong thư, ghi rõ ràng: Di chúc cá nhân – Trần Văn Thịnh.

Tôi mở ra, run rẩy.

Trong đó, cụ ghi: Toàn bộ số tiền tích góp trong nhiều năm – khoảng 200 triệu đồng – gửi lại cho cô Lan, như một lời tạ lỗi với cha mẹ cô. Nếu tôi có mệnh hệ nào, mong cô giúp đưa tôi về nằm cạnh anh Hùng, để tôi được yên lòng.

Tôi bật khóc nức nở. Người đàn ông ăn mặc rách rưới, run rẩy xin trú mưa hôm ấy… lại là người cưu mang quá khứ và tương lai của gia đình tôi.

Tôi không lấy tiền. Tôi nói:

– Cụ ở lại đây với cháu. Cháu sống một mình lâu rồi, cũng cần có người bầu bạn. Cháu gọi cụ là ông nội nhé?

Cụ Thịnh ôm tôi. Lần đầu tiên, tôi thấy cụ khóc nức như một đứa trẻ.

Một năm sau, tôi nhận lời cầu hôn từ một đồng nghiệp ở trường, người mà tôi từng lưỡng lự suốt bao năm. Ông nội Thịnh là người đứng ra thay mặt bố mẹ tôi để làm lễ dạm ngõ. Trên bàn thờ hôm ấy, tôi đặt bức ảnh cha – người đàn ông có nụ cười giống tôi đến kỳ lạ.

Tôi biết, tất cả những gì xảy ra đều bắt đầu từ một cơn mưa… và từ một lần tôi không ngần ngại mở lòng với người tưởng như xa lạ.