Home Blog Page 12

Kh;;/ẩn: Cơn b;;/ão số 3 mạnh chưa từng có chuẩn bị đổ bộ thẳng vào nước ta, cường độ và tốc độ di chuyển rất ng;;/uy h;;/iểm

Dự báo bão số 3 đổ bộ vào đất liền từ tối và đêm 21-7, vùng ven biển Quảng Ninh – Nghệ An gió mạnh dần lên cấp 7-9, gần tâm bão cấp 10-11, giật cấp 14.

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, vị trí tâm bão số 3 vào hồi 4 giờ ngày 21-7 ở 21,5 độ Vĩ Bắc – 110,4 độ Kinh Đông, gần khu vực phía Bắc bán đảo Lôi Châu (Trung Quốc).

Bão số 3 hiện đang cách Quảng Ninh – Hải Phòng khoảng 275 km về phía Đông.

Bão số 3 dự báo mạnh trở lại, cách Quảng Ninh - Hải Phòng 275 km

 

Bão số 3 dự báo mạnh trở lại, cách Quảng Ninh – Hải Phòng 275 km

Sức gió mạnh nhất cấp 9, giật cấp 11. Bão di chuyển hướng Tây Tây Nam với tốc độ 15-20 km/giờ.

Dự báo trong 24 giờ tới, bão số 3 di chuyển hướng Tây Tây Nam, khoảng 15 km/giờ và có khả năng mạnh trở lại cấp 10-11, giật cấp 14.

Vị trí tâm bão sẽ trên khu vực Bắc vịnh Bắc Bộ, trực tiếp ảnh hưởng tới vùng biển phía Tây Bắc khu vực Bắc Biển Đông, khu vực Bắc vịnh Bắc Bộ, vùng biển ven bờ các tỉnh từ Quảng Ninh đến Hưng Yên.

Tới ngày 23-7, bão di chuyển theo hướng Tây Tây Nam, 10-15 km/giờ và suy yếu dần thành áp thấp nhiệt đới, vị trí tâm bão trên đất liền các tỉnh Hưng Yên – Thanh Hoá với cường độ cấp 6-7, giật cấp 9.

Vùng biển vịnh Bắc Bộ, vùng biển ven bờ các tỉnh từ Quảng Ninh đến Nghệ An chịu ảnh hưởng chịu rủi ro thiên tai cấp 3.

Sau khi đổ bộ vào đất liền, bão suy yếu thành một vùng áp thấp trên đất liền khu vực Thượng Lào.

Cảnh báo bão số 3: Mưa lớn có nơi trên 600 mm

Trước ảnh hưởng của bão, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia cảnh báo trên biển ở khu vực Tây Bắc Bắc Biển Đông có gió cấp 7-8, vùng gần tâm bão cấp 9, giật cấp 11; sóng cao 4-6 m, biển động rất mạnh.

Khu vực Bắc vịnh Bắc Bộ (bao gồm các đặc khu Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cát Hải, đảo Hòn Dấu) có gió mạnh cấp 6-7, sau tăng lên cấp 8-9, vùng gần tâm bão đi qua cấp 10-11, giật cấp 14; sóng 3-5 m, biển động dữ dội.

Nam vịnh Bắc Bộ (bao gồm đảo Hòn Ngư) có gió mạnh dần lên cấp 6-7, vùng gần tâm bão cấp 8-9, giật cấp 11; sóng 2-4 m, biển động rất mạnh.

Trên đất liền, từ tối và đêm 21-7, vùng ven biển Quảng Ninh – Nghệ An gió mạnh dần lên cấp 7-9, gần tâm bão cấp 10-11, giật cấp 14. Sâu trong đất liền gió cấp 6, giật cấp 7-8. Gió cấp 10-11 có thể gây đổ cây, cột điện, tốc mái.

Đáng lo ngại, do ảnh hưởng của hoàn lưu bão, từ 21 đến 23-7, khu vực Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hóa, Nghệ An mưa rất to 200-350 mm, có nơi trên 600 mm. Các nơi khác ở Bắc Bộ và Hà Tĩnh mưa 100-200 mm, có nơi trên 300 mm. Nguy cơ cao là mưa lớn cường suất >150 mm/3 giờ gây lũ quét, sạt lở đất, ngập sâu vùng trũng thấp.

Nạn nhân tàu Vịnh Xanh 58 á/m ả/nh với lời từ biệt ‘thôi chào anh em, tôi đi’ anh đuối sức, tự buông tay, có lẽ anh ấy quá mệt khi lặn từ trong tàu ra khỏi mặt nước.

Thoát chết sau vụ lật tàu, anh Quân vẫn chưa nguôi ám ảnh bởi lời từ biệt của người đàn ông buông tay khỏi chiếc ghế gỗ giữa biển khơi: “Thôi chào anh em, tôi đi”.

Là một trong những người may mắn sống sót sau vụ lật tàu du lịch Vịnh Xanh 58 trên vịnh Hạ Long, anh Nguyễn Hồng Quân (SN 1985, quê Nghệ An) vẫn chưa hết bàng hoàng khi nhớ lại thảm kịch đã cướp đi sinh mạng của 35 người và khiến 4 người khác mất tích.

Anh Quân kể, sáng 19/7, sau khi hoàn thành công việc được công ty giao tại Quảng Ninh, anh ngồi cà phê ở phường Bãi Cháy và nảy sinh ý định mua vé tham quan các hang động ngoài khơi.

“12h55, tàu xuất bến từ Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long trong tiết trời nắng đẹp. Chúng tôi di chuyển được khoảng 30 phút thì bất ngờ gặp mưa lớn. Ít phút sau, gió nổi lên dữ dội, rồi một con sóng lớn ập tới khiến con tàu bị lật úp”, anh Quân nhớ lại.

Anh Nguyễn Hồng Quân kể về thời điểm tàu du lịch bị lật. (Ảnh: Minh Đức)

Anh Nguyễn Hồng Quân kể về thời điểm tàu du lịch bị lật. (Ảnh: Minh Đức)

Trước khi mọi thứ chìm vào bóng tối, anh nghe thấy tiếng hét thất thanh của một nữ nhân viên làm ở quầy bếp. Khoang khách trở nên hỗn loạn rồi nhanh chóng lặng đi. Trong khoảnh khắc định thần, anh Quân nghĩ rằng mình khó có thể sống sót.

May mắn thay, trong giây phút sinh tử, anh phát hiện ánh sáng le lói từ khu vực bếp, liền lần theo cầu thang để tìm lối thoát khỏi thân tàu, cố gắng ngoi lên mặt nước.

Sau khi bơi được khoảng 50m, anh nhìn thấy một chiếc ghế gỗ trôi bồng bềnh, có lẽ bị văng ra từ con tàu gặp nạn. Như chiếc phao cứu sinh giữa biển tuyệt vọng, anh dồn hết sức giữ lấy ghế để níu sự sống.

Ít phút sau, ba người đàn ông khác cũng trồi lên mặt nước và bám vào chiếc ghế, nghĩ cách bơi vào bờ. Nhưng chỉ được khoảng 15 phút, một người đàn ông khoảng 40 tuổi đuối sức, tự buông tay, có lẽ anh ấy quá mệt khi lặn từ trong tàu ra khỏi mặt nước. Anh ấy bảo ‘thôi chào anh em, tôi đi’ rồi buông xuôi, dần chìm vào làn nước. Câu từ biệt và đôi mắt tuyệt vọng của anh ấy khiến tôi rất ám ảnh“, anh Quân nghẹn ngào chia sẻ.

Ba người còn lại cố gắng động viên nhau bơi về phía luồng tàu thuyền qua lại với hy vọng mong manh được cứu.

Giữa biển khơi mênh mông, mỗi khi thấp thoáng thấy bóng tàu ở phía xa, ba người đàn ông lại hét khản cổ “cứu với! cứu với!” và không ngừng vẫy tay trong vô vọng.

Sau hơn 3 giờ vật lộn giữa sóng nước, một ngư dân đi thuyền gần đó nghe thấy tiếng kêu yếu ớt, lập tức lái thuyền tới ứng cứu và đưa các nạn nhân lên bờ.

Nếu trôi thêm 1 tiếng nữa, có lẽ ba anh em không còn cơ hội sống sót. Khi được cứu, ai cũng kiệt sức, tay chân tê cứng, chỉ còn bám vào chiếc ghế theo bản năng sinh tồn“, anh Quân kể lại.

Anh Vũ Anh Tú, thủy thủ trên tàu Vịnh Xanh 58. (Ảnh: Minh Đức)

Anh Vũ Anh Tú, thủy thủ trên tàu Vịnh Xanh 58. (Ảnh: Minh Đức)

Cùng bám vào chiếc ghế gỗ với anh Quân, anh Vũ Anh Tú (SN 2000, trú phường Hà An, tỉnh Quảng Ninh) là thủy thủ trên tàu Vịnh Xanh 58.

Với giọng nói còn run run, anh Tú cho biết, thuyền bị lật chỉ trong tích tắc, 48 hành khách và 3 thuyền viên gần như không kịp trở tay. Chỉ trong vòng chưa đầy 10 giây, nước đã tràn ngập mọi khoang. Buồng lái – nơi anh làm việc – là khu vực chìm đầu tiên.

Khi ấy tôi đang trên cabin của tàu, sự việc diễn ra quá nhanh khiến tất cả không kịp trở tay. Tôi không kịp phản ứng gì cả, lúc tàu bị lật úp, xung quanh tối om. Chỉ thoáng chốc, tôi thấy mình đã trên mặt biển mà không biết mình thoát ra ngoài bằng cách nào“, anh Tú thuật lại.

Vận dụng kỹ năng bơi lội, nam thuyền viên cố thoát thân ra ngoài qua một ô cửa kính nhỏ đã vỡ nham nhở do bị va đập trong quá trình tàu chìm.

Lúc rơi xuống biển, có thể tôi bị va đập, tay bị rách và xây xát, khi đó không có cảm giác đau mà chỉ sợ hãi mong tìm cách lên bờ. May mắn nhất là tôi thoát được ra ngoài, cố gắng quan sát mọi thứ xung quanh, trấn tĩnh bản thân. Tôi ngoái lại thì thấy đã bị trôi dạt xa khỏi khu vực tàu bị lật“, anh Tú cho biết thêm.

Trở về từ “cửa tử”, điều đọng lại trong tâm trí Tú không phải ký ức về vụ lật tàu mà chính là giây phút được giải cứu. Khi ấy, cả ba người – anh Tú, anh Quân và anh Mai Quân Hải (quê tỉnh Bắc Ninh) – gương mặt tái nhợt, người ướt sũng, kiệt sức sau nhiều giờ chống chọi giữa biển khơi, nghẹn ngào nhìn nhau thốt lên: “Chúng ta được cứu rồi…“.

“Tít ơi, con ở đâu rồi… về với bố mẹ đi con… bão số 3 sắp về rồi, con ơi…” Tiếng gọi x/é l/òng của người cha vang lên giữa khoảng trời xám xịt, khi từng cơn gió lạnh từ biển khơi thổi ào về như báo hiệu một cơn giông sắp ập tới.

Tít ơi… con ở đâu rồi… về với bố mẹ đi con…
Tiếng người đàn ông nghẹn ngào vang lên giữa cánh đồng lộng gió, nơi từng cọng cỏ dại cũng bị bứt bật vì cơn bão sắp kéo về. Mưa bắt đầu rơi nặng hạt, rơi lên mặt đất đã loang lổ bùn, rơi lên bàn tay chai sạn đang run lên từng đợt của anh Bình – bố Tít. Anh đứng đó, giày lấm bùn, mắt đỏ ngầu, tay ôm chặt chiếc áo phao nhỏ màu vàng – thứ duy nhất còn sót lại sau cú điện thoại khiến cuộc sống cả gia đình anh đảo lộn.

Chiếc áo phao ấy, là của Tít.

Đã ba ngày kể từ khi có tin báo chiếc tàu du lịch nhỏ bị lật úp ngoài khơi cách Hạ Long không xa. Trong số những hành khách, có một bà cụ quê ở Nghệ An và đứa cháu ngoại sáu tuổi đi cùng. Không ai rõ vì sao họ có mặt trên chuyến đi ấy. Trong danh sách đăng ký, bà cụ ghi tên mình, không đề cập đến đứa cháu. Có lẽ bà muốn tạo bất ngờ, hoặc chỉ đơn giản nghĩ đó là một chuyến đi ngắn, không đáng để phiền hà con cái.

Nhưng bất ngờ ấy… đã trở thành cơn ác mộng.

Anh Bình nhận tin dữ vào sáng ngày thứ tư, khi cơn bão số 3 được dự báo sẽ đổ bộ vào miền Trung trong vòng chưa đầy 48 tiếng. Lúc ấy, anh vẫn đang bận họp trong công ty. Điện thoại reo liên tục với những số lạ. Đến khi một cuộc gọi từ biên phòng Hạ Long vang lên, anh mới tá hỏa. Tin báo ngắn gọn: có thể con anh nằm trong số người mất tích trên chuyến tàu gặp nạn.

Không kịp suy nghĩ, anh lao về nhà, kéo vợ – chị Hạnh – đang nấu cơm trong bếp, hai người vội vã lên đường. Họ chạy dọc theo quốc lộ 1A, giữa trời nắng gắt, xe lao như thể chở theo hy vọng duy nhất của một gia đình đang gục ngã. Gió từ biển bắt đầu nổi lên, nhưng họ chẳng quan tâm. Mỗi phút trôi qua, lòng anh Bình như bị ai đó dùng dao cứa từng đường mảnh.

“Không thể nào… không thể là Tít…” – anh liên tục lẩm bẩm như kẻ mất hồn.

Chỉ cách đây mấy ngày, thằng bé vẫn còn ríu rít hỏi bố:
– Bố ơi, hè này mình đi đâu chơi?
– Bố bận lắm, Tít à, để hè sau nhé con…
– Hay bố cho con về với bà ngoại đi! Bà kể con diều to lắm, thả lên trời cao ơi là cao!

Anh Bình nhớ lại lúc ấy, mình đã gật đầu quá nhanh. Nghĩ rằng quê ngoại yên bình, có mẹ già chăm cháu là ổn rồi. Ai ngờ đâu…

Họ đến Hạ Long khi chiều muộn. Bầu trời xám xịt, mặt biển sẫm màu như một vết mực loang. Các lực lượng cứu hộ vẫn đang căng mình tìm kiếm. Một người lính trẻ kể lại: “Cháu chỉ thấy một chiếc áo phao màu vàng trôi dạt vào bờ sáng nay… không rõ của ai.” Khi nghe đến đó, chị Hạnh gục xuống. Mặt chị trắng bệch, môi run rẩy. Còn anh Bình thì im lặng. Ánh mắt anh rực lên, như một ngọn lửa sắp tắt nhưng vẫn cố gắng bùng cháy lần cuối cùng.

Đêm hôm đó, anh không ngủ. Mặc dù trạm trú đã được lực lượng hỗ trợ chuẩn bị, anh vẫn ra bờ biển, đứng nhìn từng đợt sóng vỗ. Mỗi cơn gió lùa qua đều khiến áo anh phần phật, nhưng anh không hề rùng mình. Gió lộng chẳng làm anh sợ, vì thứ đáng sợ hơn chính là sự im lặng – cái im lặng của biển cả khi nó cướp đi một sinh mạng mà chưa ai tìm thấy.

Anh gọi con trong đêm:
– Tít ơi… nếu nghe thấy bố, con hãy lên bờ… con đừng chơi nữa, nguy hiểm lắm con ơi…

Nhưng đáp lại anh chỉ là tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá, và tiếng lá cây đập vào nhau dưới trận cuồng phong đang đến gần.

Một ngày trôi qua. Rồi hai. Rồi ba.
Bà con làng chài ven biển đã quá quen với cảnh một người đàn ông mặc áo sơ mi cũ sũng nước biển, lặng lẽ đi dọc bờ cát mỗi sáng. Anh Bình chẳng màng ăn, cũng không nói gì với ai. Trong tay anh lúc nào cũng là chiếc áo phao vàng của Tít, đã bạc màu, sờn mép. Mỗi khi có người vớt được một vật gì trôi dạt – một mảnh áo, một chiếc dép trẻ con – là anh lao đến, mắt rực lên một tia hy vọng, rồi lại hụt hẫng quay đi.

Anh đang sống giữa lằn ranh mỏng manh của hy vọng và tuyệt vọng.

Người ta bảo rằng sau ba ngày trôi dạt, nếu không có gì bám vào, thì gần như không còn cơ hội. Nhưng làm sao anh tin được điều đó, khi Tít của anh là một đứa bé lanh lợi, biết bơi từ nhỏ, và đặc biệt – luôn luôn đội mũ bảo hộ và mặc áo phao mỗi khi chơi gần nước. Cậu bé ấy mê biển, nhưng cũng được dạy rằng biển rất nguy hiểm. Cậu biết nghe lời. Và quan trọng hơn – cậu chưa từng thất hứa với bố mẹ.

Sáng ngày thứ tư, khi mưa vừa dứt và gió dịu hơn đôi chút, anh Bình cùng chị Hạnh được một người dân làng chài đưa tới một đoạn bờ kè ven vịnh – nơi có một đứa trẻ khoảng sáu tuổi từng được thấy chơi gần đây, nhưng rồi mất hút sau một trận gió lạ.

– Tôi không chắc có phải là thằng bé nhà anh chị không… nhưng nó cũng mặc áo vàng, ngồi nghịch cát, miệng lẩm bẩm gọi “bà ơi bà…”

Nghe đến đó, chị Hạnh gần như ngã quỵ. Anh Bình thì đứng sững, lòng thắt lại. Một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng. Có phải linh hồn con mình về đây không? Hay là đứa trẻ ấy vẫn còn sống, lạc trong đâu đó giữa vùng ven bờ, nơi chưa ai tìm đến?

Bão số 3 vẫn đang áp sát. Dự báo cho thấy nó sẽ đổ bộ vào tối nay, với sức gió giật cấp 11. Chính quyền đã ra lệnh sơ tán dân cư ở các khu vực nguy hiểm. Nhưng anh Bình không thể rời đi. Dẫu có phải đối mặt với cuồng phong, anh vẫn tin rằng đâu đó, giữa rừng phi lao hay đám lau sậy đang rạp mình trước gió, Tít của anh vẫn đang chờ bố.

Bất giác, anh nhớ lại một buổi chiều năm ngoái, khi cả nhà đi chơi biển ở Cửa Lò. Tít lúc ấy chỉ mới năm tuổi, tay ôm con diều rồng đỏ, chạy dọc bãi cát:
– Bố ơi! Con bay được kìa!
– Diều bay, không phải con – anh Bình bật cười.
– Nhưng con là người điều khiển nó mà!

Nụ cười, giọng nói, ánh mắt ấy… giờ chỉ còn trong ký ức. Nhưng nó quá rõ ràng, quá sống động. Như thể chỉ cần quay người lại, Tít sẽ chạy ùa đến, ôm chầm lấy bố, má phồng lên vì vui sướng.

Bầu trời dần sầm lại. Cơn bão đang đến gần thật rồi. Trên nền trời xám chì, từng đám mây xoáy cuộn như những con rồng khổng lồ. Anh Bình nhìn ra biển, nước mắt chảy không thành tiếng.

– Tít ơi… nếu con còn sống… làm ơn… cho bố một dấu hiệu…

Và đúng lúc đó… một cánh diều đỏ, rách tả tơi, bay lạc giữa bầu trời đầy giông tố, quét ngang qua vạt rừng phi lao trước mặt. Nó không nên có mặt ở đó – không đứa trẻ nào lại thả diều giữa bão. Nhưng cánh diều ấy… quá quen thuộc.

Anh Bình lao theo hướng diều, mặc cho mưa gió bắt đầu quật dữ dội. Trong đầu anh chỉ có một ý nghĩ: có thể đó là Tít. Có thể, con vẫn còn sống.

Và câu chuyện thật sự… bắt đầu từ chính khoảnh khắc ấy.

Bố ơi… Con đỗ rồi, lại còn là thủ khoa nữa… Cả nhà mình đi Hạ Long chơi nhé!” Nam, không hề hay biết rằng mong ước nhỏ nhoi của cả gia đình – một chuyến đi nghỉ sau bao năm vất vả – lại trở thành khởi đầu cho một bi kịch không thể nào xóa nhòa…

Tiếng ve râm ran vắt ngang bầu trời Hà Nội một trưa tháng Bảy, như gọi về cả một trời kỷ niệm và hy vọng. Nơi góc phố nhỏ ngập nắng, căn nhà cấp bốn đơn sơ nép mình trong con hẻm ngoằn ngoèo, chất chứa bên trong không phải vật chất xa hoa mà là tình thương và nghị lực âm ỉ cháy của một gia đình nghèo suốt đời chỉ biết lao động, nhẫn nại và hy sinh.

Ông Bình – người đàn ông ngoài năm mươi với đôi vai gầy guộc và ánh mắt lúc nào cũng đượm vẻ từng trải – đang lau chiếc yên xe máy cà tàng trước cửa. Đó là chiếc xe đã gắn bó với ông hai mươi năm qua, chở biết bao hành khách xa gần, nhưng quan trọng hơn, là chở theo cả giấc mơ của con trai ông – Nam – cậu học trò cuối cấp với đôi mắt sáng và mái tóc lúc nào cũng hơi rối như chưa kịp chải vì vội vã ôn thi.

Vợ ông – bà Lan – vẫn đều đặn mỗi sáng kéo chiếc xe rác kẽo kẹt qua những con phố ngập người và khói bụi. Bà không bao giờ than vãn, dù mùi hôi thối bám dai dẳng vào làn da, khiến nhiều người lảng tránh. Nhưng bà Lan chẳng để tâm. Thứ bà lo là những đồng lương còm cõi có đủ để mua sách vở cho Nam, để lo thuốc cho bé Hà khi trái gió trở trời.

Nam hiểu tất cả. Hiểu đôi bàn tay mẹ chai sạn vì ngày ngày cầm chổi, hiểu dáng lưng bố còng đi sau mỗi cuốc xe đêm. Cậu học như điên, như thể chỉ có kiến thức mới là con đường thoát khỏi vòng luẩn quẩn nghèo đói này. Và ông Bình hiểu điều đó hơn ai hết. Một buổi tối nọ, khi cả nhà đang ngồi ăn cơm trong ánh đèn vàng leo lét, ông nhìn Nam – cậu con trai đang ngấu nghiến học thuộc bài thi – và chợt cất giọng:

“Nam này… Nếu con đỗ đại học, bố hứa, bố sẽ đưa cả nhà mình đi Hạ Long một chuyến. Cho con nghỉ ngơi, cho mẹ con đổi gió, cho em Hà biết biển là gì.”

Nam ngước lên, tròn mắt. Rồi cậu bật cười – một nụ cười hạnh phúc lấp lánh, ánh lên cả ước mơ ngây ngô và đẹp đẽ.

“Thật hả bố? Con đỗ thật bố có cho đi không?”

“Thật. Bố nói là làm.”

Chỉ một câu nói vu vơ, một lời hứa giản đơn, nhưng nó trở thành động lực để Nam vượt qua bao đêm thức trắng, bao buổi sáng chỉ kịp ăn vội nắm xôi rồi chạy đến lớp ôn thi. Cậu không muốn đi biển để khoe với bạn bè. Cậu muốn nhìn thấy mẹ cười thật tươi, muốn nghe bố kể chuyện Hạ Long từng đưa khách đi tour thế nào, muốn dắt em Hà lên boong tàu ngắm đảo, chụp ảnh bằng chiếc điện thoại cũ.

Và rồi cái ngày đó cũng đến.

Buổi trưa oi ả hôm ấy, Nam cầm tờ giấy báo trúng tuyển trong tay, mặt rạng rỡ như vừa bơi từ trong nắng ra. Cậu lao vào nhà hét to:

“Bố ơi! Con đỗ rồi! Con đỗ thủ khoa rồi!”

Cả nhà như vỡ òa. Bà Lan đánh rơi cái rổ đang rửa rau, nước bắn tung tóe. Ông Bình đứng dậy, đôi mắt dường như ngân ngấn.

“Thật không con? Thủ khoa à? Trời đất ơi…”

Không ai để ý đám ve ngoài sân vẫn kêu râm ran, hay nắng đang hắt lên mái tôn nóng rát. Chỉ có tiếng cười vang lên, giòn giã như bản nhạc mùa hạ không hồi kết. Và trong phút chốc, chuyến đi Hạ Long tưởng chừng xa vời nay bỗng trở thành hiện thực gần kề. Cả nhà xúm lại bàn bạc, vẽ ra trong trí tưởng tượng đủ thứ: thuyền buồm, hang Sửng Sốt, cầu Bãi Cháy, cả những bữa hải sản no nê bên bờ cát trắng…

Nhưng chẳng ai ngờ, mùa hạ ấy lại là mùa hạ cuối cùng…

Cả tuần sau đó, căn nhà nhỏ lúc nào cũng rộn ràng tiếng nói cười. Ông Bình tranh thủ chạy thêm vài cuốc xe vào buổi tối, thậm chí nhận chở hàng đường dài để có thêm ít tiền chuẩn bị cho chuyến đi. Bà Lan thì gấp rút vá lại mấy bộ quần áo cũ, mua cho bé Hà một chiếc mũ tai bèo hình mèo Hello Kitty mà con bé đã ao ước từ lâu. Còn Nam thì lần đầu tiên trong suốt mấy năm qua gác lại sách vở để phụ mẹ dọn nhà, phụ bố lau xe, lo từng túi đồ ăn khô và mấy vỉ thuốc chống say tàu.

Không ai nói ra, nhưng trong lòng mỗi người đều biết: đây không chỉ là một chuyến đi, mà là một phần thưởng thiêng liêng cho cả một đời lam lũ và cố gắng. Là một cột mốc. Là lần đầu tiên – và có lẽ là duy nhất – cả gia đình được cùng nhau rời khỏi thành phố đông đúc để đặt chân đến một nơi mà họ chỉ từng thấy qua tivi.

Sáng hôm ấy, khi ánh nắng đầu tiên xuyên qua những tán cây, chiếc taxi cũ kỹ đưa cả gia đình rời khỏi căn nhà nhỏ. Bà Lan mặc chiếc áo sơ mi trắng lâu ngày mới dám đem ra, tay cầm chiếc túi vải đựng đầy bánh mì và nước lọc. Ông Bình tay xách vali, miệng không ngừng nhắc Nam kiểm tra lại vé tàu và giấy tờ. Bé Hà ríu rít kể về chuyện cá heo, về chuyện muốn gặp cướp biển như trong phim hoạt hình, khiến cả xe bật cười.

Khi con tàu du lịch rời bến Bãi Cháy, lướt qua mặt nước biếc xanh của Vịnh Hạ Long, không ai trong số họ biết rằng những giờ phút ấy sẽ mãi in sâu trong ký ức như ánh chớp cuối cùng trước cơn giông.

Nam đứng trên boong tàu, ánh mắt ngỡ ngàng trước cảnh sắc thiên nhiên kỳ vĩ. Những dãy núi đá vôi nhô lên giữa mặt nước, phủ đầy cây xanh, tựa như một bức tranh thủy mặc khổng lồ. Ông Bình chỉ tay về phía xa, nơi có mấy ngư dân đang buông lưới, kể lại những năm tháng ông từng chở khách qua từng ngóc ngách nơi đây. Bà Lan dựa đầu vào vai chồng, đôi mắt lấp lánh hạnh phúc. Hà chạy nhảy trên sàn tàu, thỉnh thoảng dừng lại nhờ Nam chụp ảnh.

Mọi thứ thật yên bình, đến mức ai cũng tin rằng không gì có thể phá vỡ được khoảnh khắc ấy.

Nhưng rồi, bầu trời bắt đầu đổi sắc.

Đầu tiên là một cơn gió nhẹ. Rồi đến những vệt mây xám kéo nhau tụ lại phía chân trời. Mặt nước không còn phẳng lặng, những con sóng nhỏ bắt đầu dập dềnh. Một vài hành khách bắt đầu xôn xao, một số người lên boong gọi điện kiểm tra thời tiết.

Tiếng loa phát thanh vang lên: “Kính thưa quý khách, hiện thời tiết có dấu hiệu thay đổi, đề nghị quý khách giữ bình tĩnh và tuân theo hướng dẫn của thủy thủ đoàn.”

Không khí bỗng chùng xuống. Hà ngừng chạy nhảy, níu chặt tay mẹ. Ông Bình cau mày, ánh mắt lo lắng nhìn ra biển. Nam đứng cạnh lan can, tay nắm chặt thanh inox lạnh ngắt, cố gắng trấn an em gái:

“Không sao đâu, chỉ là mưa thôi. Mình ở trên tàu lớn mà, an toàn lắm.”

Nhưng Nam không biết, đó là cơn bão trái mùa hiếm gặp – một xoáy lốc nhỏ hình thành đột ngột ngay trên vịnh.

Gió bắt đầu gào rú. Mưa rơi lộp bộp, rồi dồn dập như trút. Những cơn sóng cao ập đến, đánh vào mạn tàu khiến con thuyền chao đảo. Tiếng người hét vang lên. Những đồ vật bắt đầu trượt trên sàn. Một chiếc ghế bay qua đầu, đập vào lan can phát ra tiếng “rầm” rợn người.

Nam hét lên:

“Bố! Mẹ! Em Hà đâu rồi!?”

Trong cơn hoảng loạn, cậu nhìn thấy cha mẹ đang ôm nhau, cố giữ bé Hà không bị cuốn đi. Ông Bình quay lại, định gọi con trai thì một cột sóng trắng xóa ập đến, nhấn chìm nửa thân tàu.

Tất cả chìm trong tiếng nước gào thét, tiếng kim loại va chạm, tiếng người kêu cứu…

Và giữa bầu trời đen kịt, Nam vùng vẫy tuyệt vọng, tay chới với bám vào chiếc ghế trôi nổi, miệng gọi như điên:

“Bố ơi! Mẹ ơi! Hà ơi!”

Bão số 3 Wipha vẫn giật cấp 15, cách nước ta 200 km. 5 tỉnh thành sẽ chịu tác động mạnh nhất bởi bão

Tin bão mới nhất: Bão số 3 WIPHA chỉ còn cách miền Bắc Việt Nam hơn 200km, trọng tâm đổ bộ sẽ vào đâu?

Theo bản tin bão mới nhất của Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia, hồi 04 giờ ngày 21/7, tâm bão ở trên khu vực phía Bắc bán đảo Lôi Châu (Trung Quốc), cách Quảng Ninh–Hải Phòng khoảng 275km về phía Đông.
nhật tin bão mới nhất: Bão số 3 còn cách Quảng Ninh – Hải Phòng bao xa?

Hồi 04 giờ ngày 21/7, tâm bão ở trên khu vực phía Bắc bán đảo Lôi Châu (Trung Quốc), cách Quảng Ninh–Hải Phòng khoảng 275km về phía Đông.

Sức gió mạnh nhất cấp 9, giật cấp 11. Bão di chuyển hướng Tây Tây Nam, tốc độ 15–20km/h.

Đến 4h ngày 22/7, bão số 3 WIPHA di chuyển theo hướng Tây Tây Nam, tốc độ khoảng 15km/h và có khả năng mạnh lên. Lúc này, bão số 3 trên khu vực Bắc vịnh Bắc Bộ, cường độ bão cấp 10-11, giật cấp 14.

Đến 4h ngày 23/7, bão số 3 di chuyển Tây Tây Nam, tốc độ 10-15km/h và suy yếu dần thành áp thấp nhiệt đới trên đất liền các tỉnh Hưng Yên – Thanh Hoá.

Đến 14h ngày 23/7 bão số 3 đi theo hướng Tây Tây Nam, tốc độ 10-15km/h, suy yếu dần thành một vùng áp thấp trên đất liền khu vực Thượng Lào.

Hướng di chuyển của bão số 3. Ảnh: nchmf.

Cảnh báo tác động của bão số 3

Do tác động của bão số 3, vùng biển phía Tây Bắc khu vực Bắc Biển Đông gió mạnh cấp 7-8, vùng gần tâm bão đi qua cấp 9, giật cấp 11; sóng biển cao 4,0-6,0m, biển động rất mạnh.

Vùng biển Bắc vịnh Bắc Bộ (bao gồm các đặc khu Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cát Hải, đảo Hòn Dấu) có gió mạnh cấp 6-7, sau tăng lên cấp 8-9, vùng gần tâm bão đi qua cấp 10-11, giật cấp 14, sóng biển cao 2,0-4,0m, vùng gần tâm bão 3,0-5,0m, biển động dữ dội; vùng biển Nam vịnh Bắc Bộ (bao gồm đảo Hòn Ngư) có gió mạnh dần lên cấp 6-7, vùng gần tâm bão cấp 8-9, giật cấp 11, sóng biển cao 2,0-4,0m, biển động rất mạnh.

Vùng ven biển Hải Phòng-Quảng Ninh có nước dâng do bão cao từ 0,5-1,0m. Mực nước tại Hòn Dấu (Hải Phòng) cao 3,7-4,1m, tại Cửa Ông (Quảng Ninh) cao 4,4-4,8m và tại Trà Cổ (Quảng Ninh) cao 3,6-4,0m. Nguy cơ cao gây ngập, úng tại khu vực ven biển, cửa sông vào chiều 22/7.

“Thời tiết trên biển, vùng đất liền ven biển trong bão cực kỳ nguy hiểm, không an toàn cho bất kỳ phương tiện, công trình nào hoạt động trong vùng nguy hiểm như: Tàu du lịch, tàu chở khách, tàu vận tải, lồng, bè, khu nuôi trồng thuỷ sản, đê, kè, tuyến đường ven biển. Các phương tiện có khả năng cao bị lật úp, phá huỷ, ngập úng do gió mạnh, dông, lốc, sóng lớn và nước biển dâng”, Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia cảnh báo.

Trên đất liền: Từ tối và đêm 21/7, vùng ven biển từ Quảng Ninh đến Nghệ An có gió mạnh dần lên cấp 7-9, vùng gần tâm bão cấp 10-11, giật cấp 14; khu vực sâu trong đất liền gió mạnh cấp 6, giật cấp 7-8. Gió cấp 10-11 có thể làm đổ cây cối, cột điện, tốc mái nhà, gây thiệt hại rất nặng.

Từ ngày 21/7 đến ngày 23/7, ở khu vực Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hóa và Nghệ An có mưa to đến rất to và dông với lượng mưa phổ biến 200-350mm, cục bộ có nơi trên 600mm; các nơi khác ở khu vực Bắc Bộ và Hà Tĩnh có mưa vừa, mưa to, cục bộ có nơi mưa rất to và dông với lượng mưa phổ biến 100-200mm, cục bộ có nơi trên 300mm.

Cảnh báo nguy cơ mưa có cường suất lớn (>150mm/3h). Lượng mưa lớn trong thời gian ngắn có thể gây lũ quét, sạt lở đất ở vùng núi, ngập lụt ở vùng trũng thấp.

Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia, cấp bão 12, 13, 14, 15 có sức phá hoại cực kỳ lớn; sóng biển cực kỳ mạnh, đánh đắm tàu biển có trong tải lớn, sẽ là thảm họa nếu không phòng tránh.

Anh Hải ơi… c/ứ/u em… em không thở được nữa rồi…” – tiếng kêu yếu ớt vang lên giữa màn mưa gió. Anh g/ào khóc tuyệt vọng, vùng vẫy giữa biển nước mênh mông, đôi mắt đỏ hoe dõi theo những thân ảnh thân yêu lần lượt chìm nghỉm vào làn sóng dữ.

Biển chiều Vịnh Hạ Long hôm ấy đẹp đến nao lòng, như thể cả vũ trụ đang hòa cùng hơi thở nhẹ nhàng của sóng, của gió, của những mạch sống đang trôi trên mặt nước xanh thẳm. Trời trong vắt như một tấm kính thủy tinh khổng lồ, để mặc ánh nắng vàng rót tràn xuống mặt vịnh, lung linh như rắc mật ong lên từng con sóng lăn tăn. Không khí lãng đãng, phảng phất mùi mặn của muối biển hòa quyện cùng hương nắng mới. Những hòn đảo đá vôi nhấp nhô như lưng khủng long ngủ yên, cổ tích hiện ra ngay trước mắt. Đó là khung cảnh trong mơ — và cũng là lần cuối cùng cả gia đình anh Hải còn được bên nhau trọn vẹn.

Du thuyền rẽ sóng băng băng tiến vào lòng vịnh, để lại phía sau là vệt nước bạc lấp lánh. Trên boong thuyền, gia đình ông bà Nam ríu rít tiếng nói cười. Chuyến đi này được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, như một món quà tri ân cuộc sống mà ông bà muốn dành tặng cho cả gia đình – tám người, tám mảnh ghép yêu thương của một đại gia đình ấm cúng. Cụ ông Nam, mái tóc bạc trắng nhưng dáng người vẫn khỏe khoắn, tựa vai vào cụ bà – người phụ nữ hiền hậu với nụ cười nhân hậu luôn thường trực trên môi. Họ nhìn lũ cháu nội ngoại chơi đùa mà ánh mắt như ánh lên cả một đời viên mãn.

Ở giữa boong, Hải – người con trai trưởng, cao lớn và trầm tĩnh, đang chỉnh lại khăn quàng cổ cho mẹ. Gương mặt anh rám nắng, nét điềm đạm hiện rõ trên vầng trán cao, dáng người rắn rỏi như một thân cây gỗ lim đã trải qua bao gió sương. Hải là người ít nói nhưng sống tình cảm, luôn là người gánh vác những điều nặng nhọc nhất trong gia đình mà không một lời than vãn. Bên cạnh anh là Quỳnh – người con gái đã gắn bó gần ba năm, mảnh mai mà kiên cường, mang vẻ đẹp nhẹ nhàng như cánh sen sớm. Họ vừa đính hôn cách đây vài tháng và dự định sau chuyến đi này sẽ bắt đầu cuộc sống mới bằng một lễ cưới ấm cúng nơi quê nhà. Trong mắt Hải, Quỳnh không chỉ là người yêu – cô là định mệnh, là người sẽ cùng anh xây đắp một mái ấm, những đứa trẻ có đôi mắt biết cười, tiếng nói rộn ràng vang trong gian bếp nhỏ.

Lan – em gái út của Hải – đang tung tăng chạy nhảy khắp nơi như chú chim sẻ nhỏ, chiếc mũ rộng vành đội lệch trông thật đáng yêu. Cô bé chỉ mới mười sáu nhưng tràn đầy sức sống, đôi mắt long lanh như hút hết cả trời mây vịnh biển. Hai em gái còn lại, Thu và Hương, nắm tay nhau cười khúc khích khi ngắm những tảng đá kỳ lạ trồi lên từ mặt nước. Họ tranh nhau gọi tên những hòn đảo có hình thù độc đáo: nào là Hòn Trống Mái, nào là Đầu Người, nào là Lưỡi Rồng…

Không khí chan hòa yêu thương, không một ai nghĩ rằng tất cả chỉ là khoảng lặng bình yên trước cơn bão.

Ở mạn tàu, Hải lặng lẽ khoác áo khoác mỏng lên cho Quỳnh rồi vòng tay ôm nhẹ cô từ phía sau. “Em thấy không?” – anh khẽ nói bên tai cô – “Chúng ta đang ở nơi đẹp nhất đất nước, với những người mình yêu thương nhất. Anh ước gì thời gian có thể dừng lại ở khoảnh khắc này.”

Quỳnh không nói, chỉ mỉm cười – nụ cười mỏng manh như tia nắng vừa chạm xuống má nước. Trong tim cô, cũng đang đầy ắp niềm hạnh phúc. Đây là lần đầu tiên cô chính thức hòa vào đại gia đình của Hải, lần đầu tiên thấy mình là một phần trong cái vòng tay ấm áp ấy. Dù là dâu tương lai, Quỳnh không hề thấy khoảng cách – vì chính sự chân thành của từng người trong gia đình đã khiến cô cảm nhận rõ ràng: mình thuộc về nơi đây.

Xa xa, tiếng còi tàu của chiếc du thuyền khác vọng lại, hòa cùng tiếng hải âu lượn lờ trên cao. Một ngày lý tưởng – như thể biển trời đã gửi gắm món quà đặc biệt dành riêng cho họ.

Nhưng ngay tại thời điểm tưởng chừng đẹp đẽ nhất, chính là lúc định mệnh bắt đầu khẽ rung lên những dây tơ mỏng manh…

Gió đổi chiều.

Thoạt đầu chỉ là một làn hơi nhẹ thổi ngang qua mặt nước, khiến mặt vịnh lăn tăn gợn. Rồi chẳng hiểu từ khi nào, bầu trời đang xanh trong bỗng nhuốm dần sắc xám. Những vệt mây xám xịt bắt đầu tụ lại, cuộn lên từng lớp như vải màn bị vò nhàu. Mặt trời vẫn còn đó, nhưng ánh sáng giờ đây không còn rực rỡ, mà lặng lẽ như chiếc đèn đang dần cạn dầu.

“Có bão à?” – ông Nam nhìn lên bầu trời, ánh mắt trầm ngâm.

Thuyền trưởng trên cabin vội điều chỉnh hướng đi, ra hiệu cho thủy thủ đoàn chú ý. Tiếng bộ đàm vang lên lách cách, loáng thoáng những lời trao đổi gấp gáp. Sóng bắt đầu vỗ mạnh vào mạn tàu. Con thuyền không còn lướt êm như ban nãy mà khẽ chao nghiêng theo nhịp.

Hải cảm nhận rõ không khí thay đổi. Anh đứng thẳng dậy, mắt nhìn ra xa xăm, nỗi lo thoáng qua đáy mắt. Anh chưa từng thấy bầu trời Hạ Long mang dáng vẻ này – như một chiếc lồng lớn đang từ từ khép lại, nhốt tất cả trong một vở kịch mà không ai biết đoạn kết.

Tiếng sấm vang lên, cuộn qua những dãy núi đá như gầm thét. Gió bỗng nhiên rít mạnh, cuốn tung tóc tai, váy áo. Những đứa trẻ vốn đang cười đùa bắt đầu bám chặt lấy người lớn, ánh mắt hoảng hốt.

“Chúng ta quay lại đi!” – Hải gọi lớn về phía thuyền trưởng.

Nhưng mọi thứ lúc ấy đã quá muộn. Cơn giông từ biển Đông như một con mãnh thú lao tới. Những đợt sóng cao hàng mét bắt đầu nổi lên. Du thuyền chao đảo dữ dội, như chiếc lá giữa dòng xoáy khổng lồ. Tiếng la hét vang lên chói lói khi một đợt sóng ập thẳng vào mạn phải, làm con thuyền nghiêng hẳn một bên.

“Bám vào! Tất cả bám vào lan can!” – tiếng ai đó hét lên giữa hỗn loạn.

Lan – cô em gái nhỏ – trượt chân, suýt bị hất văng khỏi boong nếu không được Hải lao tới kịp, ôm chặt lấy. Thu và Hương ôm lấy nhau, run rẩy. Ông bà Nam được một thủy thủ đỡ vào trong khoang nhưng nước đã tràn vào lối đi. Con thuyền không còn kiểm soát được nữa. Một cơn gió lốc xoáy, gào rú như thú dữ, quất mạnh từ phía sau.

Rồi điều không ai ngờ tới cũng đến.

Một tiếng rạn kinh hoàng vang lên – như thể thân tàu bị bẻ đôi. Toàn bộ chiếc du thuyền nghiêng hẳn, lật nghiêng trong tiếng hét kinh hoàng của hàng chục con người. Người bị hất văng, người bám trụ, nhưng cuối cùng – không ai thoát khỏi định mệnh: họ đều bị cuốn xuống biển nước đen ngòm.

Khoảnh khắc ấy, Hải không còn biết mình đang ở đâu. Tất cả trở nên mờ nhòe – tiếng gọi tên nhau, tiếng nước ào ạt, tiếng sóng gió gào thét. Trong cơn hỗn loạn, Hải cố gắng ngoi lên khỏi mặt nước, tay quờ quạng. Anh thấy một cánh tay – là của Lan – và kéo em lên. Rồi đến Hương, rồi Thu. Quỳnh đâu? Mẹ đâu? Bố đâu?

“Anh Hải ơi… cứu em… em không thở được nữa rồi…” – tiếng gọi như từ cõi chết vọng lên giữa muôn trùng sóng dữ.

Hải gào lên, bơi về phía âm thanh. Anh thấy Quỳnh đang vật lộn, bàn tay yếu ớt giơ lên giữa nước đen. Anh vươn tay ra – chỉ một chút nữa thôi… Nhưng một cơn sóng khác ập đến, mạnh và dữ dội hơn tất cả. Nó cuốn Quỳnh đi xa khỏi tầm với, nuốt chửng cả lời gọi, cả hơi thở cuối cùng của người con gái anh yêu.

“KHÔÔÔÔÔNG!”

Tiếng gào thét của Hải rách toạc màn đêm.

Anh cứu được người – vài hành khách, vài người thân. Nhưng khi đếm lại… tám người trong gia đình anh… từng người… từng người… đã vĩnh viễn bị biển cả giữ lại.

Chỉ trong một buổi chiều.

Một gia đình hạnh phúc – hóa thành những mảnh vỡ đau thương.

Thuyền viên duy nhất sống sót trên tàu Vịnh Xanh 58, kể lại giây phút thuyền trưởng vẫn cho tàu chạy tiếp

Thuyền viên duy nhất sống sót trên tàu Vịnh Xanh 58 thất thần sau tai nạn. “Tàu đi được nửa hành trình thì bất ngờ giông lốc nổi lên. Trong vòng vài giây, sóng lớn đánh lật úp tàu, mọi người bị nhấn chìm”, anh Tú kể.

Du khách yêu cầu quay lại, nhưng tàu vẫn đi tiếp

Trở về từ cõi chết, anh Đặng Anh Tuấn (36 tuổi, trú tại Hà Nội), hiện đang điều trị tại Khoa Chấn thương – Chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh, kể lại khoảnh khắc đau đớn.

Nhóm anh gồm 14 người bạn đại học thuê tàu Vịnh Xanh 58 để tham quan tuyến 2 vịnh Hạ Long. Khi tàu vừa rời bến vào khoảng 13 giờ 30, trời bất ngờ chuyển mưa to, gió lớn. Lo sợ, nhiều người trong đoàn yêu cầu quay về bờ nhưng chủ tàu và thuyền viên trấn an “sắp đến điểm tham quan đầu tiên”.

 - Ảnh 1.

Du khách cho biết, khi thấy giông lốc xuất hiện, mọi người yêu cầu về bờ nhưng thuyền trưởng vẫn cho tàu đi tiếp

ẢNH: LÃ NGHĨA HIẾU

Khi mọi người vừa mặc áo phao theo hướng dẫn thì bất ngờ sóng lớn ập vào khiến tàu lật úp trong tích tắc.

“Chỉ có một khoảng không còn không khí, tôi cố hít một hơi thật sâu rồi lặn xuống. Khi nhìn thấy ánh sáng từ mặt biển hắt xuống, tôi cởi áo phao để dễ bơi và lao theo hướng đó để thoát ra ngoài,” anh Tuấn nghẹn giọng.

Anh cố gắng cứu thêm 4 người, nhưng chỉ 2 người còn sống. Hai nạn nhân còn lại không qua khỏi, anh đành buộc thi thể họ vào mạn tàu để chờ lực lượng cứu hộ đến. Trong đoàn của anh, chỉ còn 2 người sống sót.

Thuyền viên duy nhất sống sót: ‘Tôi may mắn còn sống’

Anh Vũ Anh Tú (25 tuổi, trú tại Hà An, Quảng Ninh), thuyền viên duy nhất sống sót trên tàu Vịnh Xanh 58, vẫn thất thần sau tai nạn.

“Tàu đi được nửa hành trình thì bất ngờ giông lốc nổi lên. Trong vòng vài giây, sóng lớn đánh lật úp tàu, mọi người bị nhấn chìm”, anh Tú kể.

 - Ảnh 2.

Thuyền viên may mắn sống sót sau thảm họa vẫn chưa hết bàng hoàng

Bị va đập mạnh vào các vật cứng, tay bị rách, nhưng anh vẫn cố giữ bình tĩnh, lặn mò theo ánh sáng le lói để ngoi lên mặt nước. May mắn, anh bám được vào một chiếc ghế gỗ trôi nổi.

“Tôi không thể hình dung nổi vì sao mình thoát được, có lẽ tôi đã quá may mắn,” anh nói trong nước mắt.

Trong khi đó, anh Nguyễn Hồng Quân (39 tuổi, quê Nghệ An) là một trong số ít khách du lịch thoát nạn. Anh kể, khi đang đứng ở boong tầng 2 thì bất ngờ sóng lớn đánh mạnh vào tàu. “Nước biển tràn vào cabin, boong ướt sũng, tôi bị hất văng và đập mạnh vào vật cứng. Mắt tối sầm lại. Tôi cố gắng nín thở, lặn theo ánh sáng và ngoi lên mặt nước”, anh Quân nhớ lại.

Dù bị thương, anh cùng một số người trôi dạt, bám vào các vật nổi rồi tìm cách hướng vào đảo gần nhất. Sau đó, anh được ngư dân và lực lượng cứu hộ đưa vào bờ.

 - Ảnh 3.

Giây phút thoát khỏi thảm họa của những nạn nhân trong vụ lật tàu trên vịnh Hạ Long

ẢNH: BPQN

Đến chiều nay 20.7, lực lượng chức năng đã cứu được 10 người, tìm thấy 35 thi thể, vẫn còn 4 người mất tích. Công tác tìm kiếm vẫn đang được triển khai gấp rút trước khi bão số 3 đổ bộ.

Trao đổi với Thanh Niên, bác sĩ Bùi Mạnh Hùng, Phó giám đốc Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh, cho biết trong số 10 nạn nhân được cứu, có bé trai 10 tuổi đã mất hết gia đình trong vụ lật tàu trên vịnh Hạ Long. Bé trai đã được chuyển lên Hà Nội để người thân chăm sóc. Còn người phụ nữ bị thương ở tay cũng mất chồng và 2 con cũng xin được xuất viện về nhà để lo hậu sự.

“Đến thời điểm hiện tại, 8 nạn nhân đang điều trị tại các cơ sở y tế của tỉnh Quảng Ninh được chăm sóc trong điều kiện tốt nhất, sức khỏe của mọi người đã tốt lên, tâm lý ổn định hơn sau vụ tai nạn thảm họa”, bác sĩ Hùng thông tin.

Những lời kể từ các nhân chứng sống sót không chỉ lột tả mức độ khốc liệt của vụ tai nạn, mà còn là tiếng chuông cảnh tỉnh về sự an toàn trong du lịch đường thủy, đặc biệt trong bối cảnh thời tiết ngày càng diễn biến khó lường.

Suốt một năm chắt chiu từng đồng, anh Hòa cuối cùng cũng dành dụm được 15 triệu – số tiền đủ để đưa vợ và hai con nhỏ thực hiện chuyến du lịch đầu tiên đến Hạ Long. Nào ngờ, chuyến đi tưởng chừng là niềm vui trọn vẹn ấy lại trở thành định mệnh. Hôm đó, giữa sóng nước mênh mông, anh thều thào với con trong giây phút cuối: ‘Bố mệt quá… bố buông tay nhé…’ – rồi chìm dần vào lòng biển, mang theo cả hai đứa con thơ…

Anh Hòa không phải là người mơ mộng nhiều. Anh sống thực tế – đủ để biết rằng với đồng lương công nhân của mình, cuộc sống chẳng mấy khi có những chuyến đi xa hay những trải nghiệm đắt đỏ. Suốt 12 năm từ khi lấy vợ, chưa khi nào anh đưa cả nhà đi nghỉ ở đâu ngoài ngoại ô thành phố. Chuyến đi xa nhất là lần về quê vợ ở Nam Định, cách Hà Nội hơn trăm cây số – cũng là bằng xe khách chật chội, nóng nực và chỉ gói gọn trong ba ngày.

Vậy mà năm nay, khi con gái lớn của anh – bé Thảo – được giấy khen học sinh giỏi toàn diện, còn bé út – cu Bin – bắt đầu ê a đánh vần những con chữ đầu tiên, anh quyết định “chơi lớn” một lần. Cũng bởi vợ anh, chị Ngân, đã thỏ thẻ từ đầu năm: “Hay là hè này mình cố thu xếp cho các con đi biển một lần anh nhỉ? Chúng nó chưa từng thấy biển đâu.” Anh cười, nửa thật nửa đùa: “Ừ, để anh gom tiền Tết thưởng, rồi mỗi tháng để dành chút, biết đâu cuối hè mình đủ.”

Nói vậy, nhưng anh nghiêm túc thực hiện. Từ Tết, anh bắt đầu ghi chép chi tiêu từng đồng. Bỏ hẳn thói quen mua vài lon bia mỗi cuối tuần, từ chối hết các cuộc tụ tập với bạn bè, thậm chí còn xin làm thêm giờ. Chị Ngân cũng tiết kiệm từng mớ rau, cân thịt. Cả hai đều có cùng một mục tiêu duy nhất: đưa các con đến biển.

Và cuối cùng, đến đầu tháng Bảy, khi anh đếm lại những tờ tiền đã được cuộn gọn trong ống nhựa cũ – một triệu, hai triệu… mười lăm triệu – anh thở phào, mắt ánh lên niềm hạnh phúc. “Vừa đủ! Mình đi Hạ Long, hai ngày một đêm thôi cũng được. Để bọn trẻ ngắm biển, tắm nắng, ăn hải sản lần đầu trong đời.”

Lũ trẻ thì khỏi phải nói, vui như Tết. Cả nhà háo hức chuẩn bị từ áo phao, kính bơi đến kem chống nắng. Đêm trước ngày đi, bé Thảo còn viết nhật ký: “Ngày mai con được đi biển! Biển như thế nào nhỉ? Có màu xanh như trong sách Địa không? Con sẽ nhặt vỏ ốc thật nhiều mang về tặng cô giáo.”

Anh Hòa nhìn con hí hoáy ghi chép, trong lòng dâng lên niềm xúc động lạ thường. Anh không phải người hay thể hiện tình cảm, nhưng lúc đó, anh quay sang vợ thì thầm: “Chỉ cần tụi nhỏ hạnh phúc, anh thấy mọi mệt mỏi cả năm qua đều xứng đáng.”

Chuyến xe giường nằm rời Hà Nội lúc 6 giờ sáng, lăn bánh về phía vùng đất của biển cả. Trong lòng anh Hòa là một sự háo hức – giống như cảm giác lần đầu tiên được tặng phần thưởng khi còn là cậu học sinh lớp 5 vậy. Biển đang chờ họ, cùng những tiếng cười ngây thơ, cùng những bước chân nhỏ hằn trên cát trắng.

Chẳng ai ngờ rằng, giấc mơ chỉ vừa mới bắt đầu đã sắp sửa hóa cơn ác mộng…

Hạ Long chào đón họ bằng ánh nắng rực rỡ, tiếng sóng vỗ nhè nhẹ vào bờ và mùi mặn mòi của gió biển – cái mùi xa lạ mà các con anh Hòa thích mê. Bé Thảo reo lên khi lần đầu chân chạm nước: “Mát lạnh quá bố ơi!” Cu Bin thì cứ cười khanh khách, vừa chạy vừa vốc cát ném tung tóe.

Anh Hòa đứng nhìn vợ con với một nụ cười nhẹ nhõm. Lần đầu tiên trong nhiều năm, anh cảm thấy mình đang làm đúng vai trò của người chồng, người cha. Anh không cho con cái điều kiện vật chất đầy đủ như những gia đình khác, nhưng ít nhất, anh đã cho chúng một kỷ niệm quý giá.

Chiều hôm đó, sau khi ăn trưa và nghỉ ngơi tại một homestay nhỏ, cả nhà quyết định đi tàu tham quan vịnh. Tàu không lớn, nhưng có áo phao đầy đủ, có hướng dẫn viên nhiệt tình. Họ cùng với vài gia đình khác lên tàu, háo hức với lịch trình ngắm hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt rồi neo lại ở một khu vực vắng để tắm biển tự do.

“Anh Hòa, nhớ trông chừng hai đứa nhỏ nhé, đừng cho bơi ra xa,” chị Ngân dặn khi chuẩn bị cho con mặc áo phao.

“Yên tâm, có bố ở đây,” anh vỗ ngực, nửa đùa nửa thật.

Tàu neo ở khu vực nước trong vắt. Có bãi cát nổi nhỏ nổi lên giữa vịnh. Mọi người rôm rả xuống tắm, bơi lội. Bé Thảo và cu Bin được anh Hòa kèm sát. Anh đỡ con tập bơi, cười vang mỗi khi chúng hò hét gọi: “Bố ơi, nhìn con nè!”

Bất chợt, gió nổi lên – không lớn nhưng đủ khiến mặt nước xao động. Một chiếc xuồng máy từ xa đi ngang làm sóng đập mạnh vào mạn tàu. Trong một khoảnh khắc thiếu quan sát, anh Hòa đang giúp cu Bin quay đầu thì sóng ập vào. Chiếc phao nhỏ lệch hướng. Bé Thảo – không biết vì hoảng loạn hay cố bơi theo em – bất chợt mất thăng bằng, trượt khỏi vùng nước nông. Anh Hòa hét lớn: “Thảo ơi, đừng bơi nữa, bố tới!”

Mọi thứ sau đó diễn ra như một cơn lốc. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, anh Hòa quăng mình ra khỏi vùng an toàn, cố gắng tiếp cận hai đứa con đang vùng vẫy. Người trên tàu la hét. Hướng dẫn viên vội thả phao cứu sinh. Nhưng sóng lúc đó đã dồn dập. Một tay ôm Thảo, một tay đỡ cu Bin, anh Hòa cố gắng đạp nước đưa các con vào bờ.

“Bố mệt quá, bố buông tay nhé…”

Chị Ngân kể lại sau này trong nước mắt, rằng đó là câu cuối cùng chị nghe từ miệng chồng khi anh gắng sức đẩy hai con về phía người cứu hộ. Còn chính anh – không một ai biết – đã chìm dần dưới làn nước xanh biếc, giữa hàng ngàn con sóng vô tình.

Ngày hôm đó, Hạ Long không còn là thiên đường. Biển xanh ấy đã giữ lại một người cha.

Ba ngày sau vụ tai nạn, người ta tìm thấy thi thể anh Hòa trôi dạt vào một góc vịnh, cách nơi tàu neo khoảng gần một cây số. Thi thể anh vẫn còn mặc nguyên chiếc áo phao rách – có lẽ do va chạm khi cố gắng cứu hai đứa trẻ. Khuôn mặt anh bình thản, như đang ngủ – một giấc ngủ không mộng mị, nhưng đầy thắt lòng với người ở lại.

Chị Ngân ngất lên ngất xuống, không tin đó là sự thật. Từ khoảnh khắc anh buông tay, để lại hai đứa trẻ hoảng loạn được người dân vớt lên bờ, chị đã chỉ còn lại một nửa linh hồn. Vết nứt ấy quá lớn, không gì hàn gắn nổi.

Bé Thảo từ hôm đó không còn cười nữa. Cô bé chỉ lặng lẽ ôm con vỏ ốc nhặt được trên bãi cát, tay vẫn run rẩy: “Con gọi bố rồi… Bố không nghe thấy con…” Cu Bin thì chưa hiểu hết. Bé chỉ biết bố không còn bế bé nữa, không còn vỗ mông bé trước giờ ngủ. Những đêm về sau, thằng bé hay ú ớ: “Bố đâu rồi mẹ? Sao bố không về nhà mình?”

Chuyến xe về Hà Nội là một hành trình im lặng đến tê dại. Hành lý vẫn còn nguyên – túi bánh rán ven biển, chiếc áo phao nhỏ mua cho cu Bin, cả chiếc kính râm anh Hòa mới mua… nhưng tất cả trở thành những vật kỷ niệm đau đớn. Không ai trong xe dám nói câu nào. Mọi người chỉ đưa mắt nhìn ba mẹ con chị Ngân – như một lời chia buồn lặng câm.

Tang lễ anh Hòa không lớn, không có vòng hoa đắt tiền hay người đưa tiễn đông đúc. Nhưng trong căn nhà nhỏ ở góc phố, tiếng khóc của chị Ngân đủ xé lòng cả khu phố nghèo. Hàng xóm kể nhau nghe rằng cả năm anh Hòa dành dụm để đi du lịch một lần. Mà lần đó lại là chuyến đi cuối đời.

Một ông bác hàng xóm nhìn linh cữu mà lẩm bẩm: “Nó là thằng đàn ông tử tế… Tử tế đến mức dám đánh đổi mạng sống vì con. Hiếm lắm rồi, đời này…”

Ngày tiễn anh về nơi an nghỉ, trời mưa. Những hạt mưa nặng như có nước mắt, cứ rơi mãi không dứt. Bé Thảo cầm bó hoa trắng, đặt lên nắp quan tài bố, thì thầm: “Bố ơi, biển xanh lắm… Nhưng con không muốn đi nữa. Vì bố không ở đó.”

Chị Ngân không còn khóc được nữa. Đôi mắt chị khô khốc, hốc hác chỉ trong vài ngày ngắn ngủi. Đau thương không bật thành tiếng, mà hóa thành cái trống rỗng cào cấu lồng ngực. Từ sau tang lễ, chị thức trắng đêm, lần giở từng tấm ảnh của chồng: ảnh ngày cưới, ảnh anh bế Thảo lần đầu, ảnh Tết năm ngoái cả nhà mặc áo đỏ…

Chuyến đi ấy, đáng lẽ là giấc mơ. Giờ đây, nó trở thành cơn ác mộng – kéo dài không dứt trong từng đêm chị nằm mơ thấy anh Hòa chìa tay, mỉm cười: “Anh không sao… Em cứ sống tốt, chăm các con giúp anh.”

Nhưng làm sao sống bình thường khi người đầu ấp tay gối mười mấy năm bỗng biến mất? Làm sao trả lời những câu hỏi dồn dập từ hai đứa trẻ? Làm sao xóa đi hình ảnh anh vật lộn giữa sóng nước, đẩy con về rồi dần chìm vào vô tận?

Ngày thứ bảy sau tang lễ, chị Ngân đứng trước bàn thờ anh, chắp tay run rẩy:
“Anh à… Em xin lỗi. Em rủ anh đi biển. Nếu ngày đó em không nói, có lẽ giờ anh vẫn còn ở đây… Em sai rồi, anh ơi…”

Và rồi chị ngồi sụp xuống sàn. Hai đứa trẻ ôm mẹ. Cả ba – một gia đình không còn trọn vẹn – ngồi im lặng trong căn nhà lạnh tanh. Ngoài trời, mưa vẫn rơi.

Gia đình 4 người m;ấ;t vì l;ậ;t tàu: Mẹ mắc UT, cả nhà du lịch mừng con vào đại học, giờ chỉ còn đúng cậu bé trở về cùng 4 cỗ qu;a;n t;à;i

Bà Ng. bị ung thư nên gia cảnh khó khăn, không ngờ chuyến du lịch hiếm hoi của cả nhà mừng con vào đại học lại gặp nạn lật tàu ở Hạ Long, 5 người đi chỉ 1 người trở về.

Ngày 20/7, không khí tang thương bao trùm thôn Vĩnh Ninh, xã Đại Thanh, TP Hà Nội, nơi có gia đình 4 người thiệt mạng trong vụ lật tàu ở Vịnh Hạ Long. Nhìn di ảnh ông N.H.T. và vợ con trên ban thờ, những người đến chia buồn đều cảm thấy thắt lòng đau xót trước tai họa nghiệt ngã giáng xuống gia đình này trong chuyến du lịch định mệnh.

Ông N.H.T. (sinh năm 1973) làm lái xe; vợ ông là bà T.T.Ng. (sinh năm 1974) ở nhà nội trợ. Cuộc sống tuy không khá giả nhưng gia đình lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc. Trong ba người con của họ, con gái cả T.H. (sinh năm 2002) mới tốt nghiệp đại học, đi làm chưa lâu; con trai thứ 2 là P. (sinh năm 2007) vừa tốt nghiệp THPT, còn con gái út A.T. tròn 8 tuổi.

Bà Ng. có bệnh ung thư nhưng thỉnh thoảng vẫn nhận vài việc lặt vặt để kiếm thêm thu nhập. Gia đình họ hiếm khi đi du lịch, không ngờ chuyến đi mừng con trai vào đại học lại thành thảm kịch, 5 người đi nhưng chỉ một người trở về.
Ban thờ gia đình 4 người thiệt mạng trong vụ lật tàu ở Quảng Ninh.

Ban thờ gia đình 4 người thiệt mạng trong vụ lật tàu ở Quảng Ninh.

Ông Dũng (58 tuổi, anh trai ông T.) thẫn thờ bên chiếc bàn thờ tạm, nơi 4 tấm di ảnh của em trai, em dâu và hai cháu ruột được đặt cạnh nhau. Giọng ông nghẹn lại vì đau xót: “Nỗi mất mát này quá lớn, không gì có thể bù đắp được. Các em, các cháu tôi ra đi quá đột ngột…, đến giờ, tôi vẫn không thể tin đó là sự thật”.

Ngồi ở một góc nhỏ trong ngôi nhà tang tóc, chị An – người em thân thiết của bà Ng. – mắt đỏ hoe, nhiều lần bật khóc khi nhìn về loạt di ảnh.

Chị vừa nấc vừa kể: “Tôi với chị Ng. quen nhau được hơn 10 năm nay. Dù không phải người thân ruột thịt nhưng chúng tôi luôn chia sẻ, giúp đỡ nhau những lúc khó khăn, coi nhau như chị em ruột trong nhà.

Vừa mới đây, chúng tôi vẫn còn trò chuyện qua tin nhắn. Nào ngờ sáng nay, tôi nhận được tin gia đình chị đi du lịch gặp nạn, mất 4 người, chỉ còn cháu P. Tôi không tin là thật cho đến khi thấy clip gia đình chị ngồi trên chiếc tàu bị đắm ở vịnh Hạ Long”.

Theo chia sẻ của chị An, vợ chồng bà Ng. sống tình cảm, hiền lành và chăm chỉ, chịu khó: “Hoàn cảnh gia đình chị Ng. vốn bình thường, không dư giả. Từ khi chị phát hiện mắc bệnh ung thư, gia đình rơi vào cảnh chật vật. Tiền thuốc men, chi phí điều trị quá tốn kém, trong khi ba đứa con còn đang tuổi ăn học. Vợ chồng chị ấy làm nhiều công việc nhưng chẳng kiếm được bao nhiêu, nhiều lúc túng thiếu phải vay mượn để mua thuốc hay đóng học cho các con”.

Thương người chị thân thiết dù vất vả khó khăn đến mấy cũng cố lo cho các con ăn học đàng hoàng, chị An nghẹn ngào: “Kể từ khi quen chị Ng. đến nay, tôi chưa bao giờ thấy gia đình chị đi du lịch hay nghỉ mát ở đâu. Chuyến đi du lịch vừa rồi là món quà anh chị dành tặng con trai sau khi cháu thi xong lớp 12 và chuẩn bị bước vào đại học. Có ai ngờ lại xảy ra chuyện như vậy. Nỗi đau mất mát quá lớn, chỉ còn P. thoát nạn. Tôi không biết liệu cháu có vượt qua được nỗi đau này không nữa”.

Xuyên đêm trục vớt tàu Vịnh Xanh 58 ở vịnh Hạ Long.

Vụ chìm tàu xảy ra trưa 19/7. Tàu du lịch Vịnh Xanh 58, biển kiểm soát QN-7105, chở 49 người gồm 46 du khách và 3 thuyền viên, rời cảng lúc 12h55 để tham quan các điểm du lịch nổi tiếng trên tuyến 2 vịnh Hạ Long. Đến khoảng 13h30, tàu gặp giông lốc bất ngờ; 14h05 thì hoàn toàn mất tín hiệu GPS.

Đến thời điểm hiện tại, lực lượng chức năng tìm thấy 45 trong tổng số 49 người trên tàu, trong đó 35 người thiệt mạng và 10 người sống sót. Hiện còn 4 người mất tích.

Theo thông tin ban đầu từ các xã, phường ở Hà Nội, thành phố có 17 người được xác nhận tử vong, 3 người bị thương, 3 người mất tích trong vụ tai nạn nghiêm trọng này.

“Tàu đi rồi bố ơi, không quay lại được. Bác lái bảo chỉ đi thêm một đoạn nữa thôi…”

Buổi sáng hôm ấy, trời cao trong xanh đến lạ. Mặt biển Hạ Long phẳng lặng như một tấm gương khổng lồ, soi chiếu từng tia nắng đầu ngày óng ánh như rắc vàng. Sóng không lớn, chỉ đủ vỗ nhẹ vào mạn tàu tạo ra âm thanh đều đặn, tựa nhịp tim của biển khơi. Cảnh vật đẹp đến nghẹn lời, và nếu ai đó bảo rằng một cơn bão dữ dội sắp ập đến, chắc chắn sẽ bị cho là kẻ hoang tưởng. Bởi vì vào buổi sáng ấy — chẳng ai có lý do để lo lắng.

Ông Thành đứng tựa lan can, hít đầy một hơi không khí mằn mặn mà trong lành, rồi quay sang vợ, cười nhẹ:
“Đáng lẽ mình phải đi từ năm ngoái rồi.”

Bà chỉ gật đầu, tay kéo chiếc khăn quàng cổ sặc sỡ mà cô cháu gái vừa tặng. Dưới ánh nắng, sắc màu của nó rực rỡ như cờ hội. Phía xa, Đức Minh – con trai ông – đang cầm máy ảnh chụp lia lịa. Bạn gái cậu, một cô gái nhỏ nhắn tên Phương, rạng rỡ trong chiếc váy trắng, đang chỉ tay về phía đảo Đầu Gỗ, nơi đàn chim hải âu bay rợp trời.

Trẻ con trong đoàn – đám cháu của ông Thành – thì líu ríu như đàn sẻ nâu, luôn miệng hỏi chú lái tàu về các hòn đảo, các truyền thuyết, những hang động đá vôi được ánh nắng chiếu rọi tạo thành những mảng sáng kỳ ảo.

Không khí trên tàu như một buổi họp mặt lớn: ấm áp, thân tình và tràn ngập tiếng cười.
Chuyến đi này được lên kế hoạch từ nhiều tháng trước, như một cách để gắn kết đại gia đình sau quãng thời gian dài bận rộn. Ai cũng hào hứng. Ông Thành, người ít khi nghỉ ngơi, cuối cùng cũng đồng ý buông bỏ công việc, tắt điện thoại, và sống đúng nghĩa cho mình một ngày.

Tàu chầm chậm lướt qua những vách đá phủ rêu xanh, len lỏi vào giữa các đảo nhỏ, nơi sóng biển rì rào kể chuyện muôn đời. Trên boong, bà Thành thỉnh thoảng lại mỉm cười, lặng lẽ nhìn các con cháu, ánh mắt bà dường như đang lưu giữ từng khoảnh khắc vào ký ức.

Chẳng ai biết rằng… chính trong khoảnh khắc bình yên đó, mầm mống của bi kịch đã len lỏi.

Khoảng 9 giờ sáng, ông Thành nhận ra trời có dấu hiệu lạ. Không phải vì biển động, cũng không vì sóng to. Chỉ là… một cảm giác bất an, mơ hồ, khiến ông đứng ngồi không yên.

Ông gọi điện cho Đức Minh – lúc đó tàu đã đi khá xa khỏi cảng – giọng lo lắng:
“Con nói người ta quay tàu về đi, bố thấy có cái gì không ổn.”

Minh trả lời, có chút bất ngờ nhưng vẫn giữ giọng trấn an:
“Tàu đi rồi bố ơi, không quay lại được. Bác lái bảo chỉ đi thêm một đoạn nữa thôi. Trời đang đẹp lắm mà.”

Ông Thành nhìn về phía xa chân trời – nơi mây bắt đầu dày đặc hơn, một vệt xám lặng lẽ bò ngang qua nền trời như một vết xước.

“Không được, phải quay lại…” – ông nói với chính mình, nhưng tiếng còi xe ở bến Hà Tu át cả tiếng lòng ông. Ông ngước lên – mây đang chuyển động nhanh hơn, và gió bắt đầu đổi hướng.

Chẳng ai nghe thấy tiếng cảnh báo vô hình của ông trời. Và rồi… chỉ vài chục phút sau, vùng trời Hạ Long không còn trong xanh nữa.

Mười phút sau cuộc gọi cuối cùng ấy, trời như đổi tính.

Đầu tiên là một làn gió lạnh quét qua vùng nước vốn đang phẳng lặng. Mặt biển gợn sóng lăn tăn, tưởng chừng chỉ là cơn gió bình thường đánh thức sự sống trong không gian thanh bình ấy. Nhưng rồi, từ phía xa, một dải mây đen dày đặc vươn dài như móng vuốt chầm chậm trườn tới, nuốt chửng ánh sáng ban mai.

Trên tàu, tiếng cười nói bắt đầu nhỏ lại. Đức Minh ngẩng đầu nhìn trời, khẽ chau mày:
“Sao mây kéo nhanh vậy?”

Phương nắm lấy tay Minh, hơi siết lại.
“Anh ơi… em thấy lạnh sống lưng.”

Đám trẻ con ngừng đùa nghịch. Một cơn gió mạnh bất ngờ giật bay chiếc nón của bé Mai – đứa cháu gái nhỏ nhất. Nó òa khóc. Tiếng khóc ấy – giữa một khoảng không dần im lặng – như chiếc kim chọc thủng tấm màn yên ả cuối cùng.

Rồi… đến lượt sấm vang lên. Không phải tiếng sấm bình thường – mà là thứ âm thanh khô khốc, dữ dội, như tiếng nứt của vòm trời. Một tia chớp bổ dọc xuống cách tàu chưa đầy trăm mét, làm mặt nước nổ tung như bị ai đó đấm thẳng từ trên cao.

Trên boong, bác lái tàu – vốn lạc quan và dạn dày sóng gió – lần đầu tiên gào lên:
“Mọi người vào khoang! Có lốc xoáy!”

Nhưng đã quá muộn.

Từ phía mạn phải, một cột nước khổng lồ bốc lên trời, xoay cuồng như một con quái vật bằng hơi nước, cuốn theo bọt trắng và cả tiếng gào thét của thiên nhiên. Lốc xoáy tràn đến, không chút báo trước, không chút nương tay.

Tàu chao nghiêng, rồi nghiêng nữa. Tiếng đồ đạc đổ vỡ, tiếng người gọi nhau trong hoảng loạn, tiếng va đập của cơ thể vào vách gỗ. Một chiếc vali văng khỏi lan can, rơi xuống biển, như một dấu hiệu cho thấy sự kiểm soát đã mất.

Rồi… con tàu lật úp.

Tất cả diễn ra trong chưa đầy 30 giây.

Nước tràn vào khoang. Bóng tối bao phủ. Người chới với giữa vật thể, giữa tiếng nấc nghẹn và những bàn tay tuyệt vọng cố bấu víu vào bất kỳ thứ gì nổi được.

Trong hỗn loạn ấy, Đức Minh không kêu gào. Anh không nghĩ đến bản thân. Anh chỉ lao thẳng xuống lòng nước, mặc cho ngực đau buốt vì áp lực, mặc cho tai ù đi vì tiếng gió rít vang bên trong hộp sọ.

“Phải tìm mẹ… mẹ ở đâu?” – đầu anh chỉ có một điều đó.

Anh luồn qua các khung cửa, len vào khoang đang nghiêng lệch như sắp vỡ tung. Một thoáng ánh sáng từ khoảng hở khiến anh thấy được vạt áo của mẹ, bị kẹt dưới dầm gỗ. Anh bơi tới.

Bàn tay run rẩy của bà nắm lấy anh – yếu ớt, nhưng còn sống.

Anh kéo. Nước ngập đến cổ.

Anh gồng mình, dồn hết sức, cắn chặt răng như muốn rách môi. Và trong giây phút tưởng chừng không thể, dầm gỗ nhích ra vài phân – đủ để bà Thành trượt khỏi.

Hai mẹ con nổi lên mặt nước. Cả hai ho sặc sụa, nhưng vẫn sống.

Xung quanh, không còn tiếng động cơ. Không còn tiếng hướng dẫn. Chỉ có tiếng sóng và những tiếng kêu cứu rời rạc – dần thưa, dần yếu. Trên mặt biển, vết dầu loang và mảnh vỡ gỗ tàu trôi lềnh bềnh.

Một chuyến đi đã bắt đầu bằng nắng, và kết thúc trong nước mắt.

Và tại khu vực cảng, ông Thành – người đã dự cảm được tất cả nhưng không thể ngăn nổi – ngồi lặng. Mắt ông đỏ hoe, giọng khản đặc khi kể lại với những người tìm kiếm cứu hộ:
“Nó bảo: ‘Tàu đi rồi bố ơi, không quay lại được…’”

Ông lặp lại câu nói ấy – như một lời hối hận không thể nguôi. Và bên tai ông, tiếng gió biển vẫn thổi, nhưng không còn yên lành như sáng sớm nữa.