Home Blog Page 33

KH:Ẩ:N: Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia dự báo THỜI GIAN CỤ THỂ áp thấp nhiệt đới sẽ mạnh lên thành bão

Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia dự báo chậm nhất chiều mai 11-6, áp thấp nhiệt đới sẽ mạnh lên thành bão.

Sáng 10-6, áp thấp nhiệt đới đang cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 360 km về phía Đông Đông Nam. Gió mạnh cấp 6, giật cấp 8, di chuyển chậm về phía Tây.

Ông Nguyễn Văn Hưởng, Trưởng phòng Dự báo thời tiết, Trung tâm dự báo thời tiết

 

Ông Nguyễn Văn Hưởng, Trưởng phòng Dự báo thời tiết, Trung tâm dự báo thời tiết

Ông Nguyễn Văn Hưởng, Trưởng phòng Dự báo thời tiết, Trung tâm Dự báo thời tiết, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, cho biết sáng nay 10-6, vùng áp thấp khu vực phía Đông giữa Biển Đông đã mạnh lên áp thấp nhiệt đới.

Tính từ đầu năm đến giờ, đây là áp thấp nhiệt đới thứ 2 ở khu vực Biển Đông.

Trong 24 giờ tới, dự báo áp thấp nhiệt đới có thể mạnh lên thành bão. “Nhận định khả năng cao trong sáng hoặc chậm nhất chiều 11-4, áp thấp nhiệt đới sẽ mạnh lên thành bão. Đây là cơn bão số 1 trên biển Đông. Đây cũng là cơn bão đầu tiên hoạt động trên khu vực Tây Bắc – Thái Bình Dương trong năm nay” – ông Hưởng cho biết.

Đặc điểm của cơn bão số 1 là hoàn lưu mây áp thấp nhiệt đới, mây bão rộng bao phủ hầu khắp khu vực Bắc, giữa và phía Nam Biển Đông, khu vực miền Trung từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi đều là vùng chịu tác động.

Với tác động của hoàn lưu áp thấp nhiệt đới, bão số 1 bao phủ ngang Biển Đông, tất cả khu vực Bắc, giữa, ngang Biển Đông bao gồm vùng biển Hoàng Sa và ngang Trường Sa đều vùng có gió mạnh cấp 6-7, tăng cấp 8-9, cùng sự phát triển với cơn bão.

Sóng phía Bắc Bển Đông cao từ 4-6 m, Trung Bộ cao từ 2-4 m, khi di chuyển tới quần đảo Hoàng Sa, áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão, sau đó đổi hướng đi lên phía Bắc đi vào phía Đông của Đảo Hải Nam. Đây là phương án có kịch bản cao.

Tuy nhiên, chuyên gia cũng dự báo không loại trừ phương án bão đổi hướng dịch chuyển vào Bắc Bộ nhưng xác suất không cao.

Khoảng 24 giờ tới, vùng áp thấp trên Biển Đông có khả năng mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới, với xác suất 80-90%; sau đó, tiếp tục mạnh lên thành bão với xác suất khoảng 60-70%.

Chiều 9/6, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia cho biết diễn biến vùng áp thấp trên Biển Đông và nguy cơ thời tiết nguy hiểm trên biển.

Theo đó, sáng nay, một vùng áp thấp xuất hiện trên khu vực Bắc Biển Đông, có vị trí lúc 7h ở khoảng 17-18 độ vĩ Bắc, 117,2-118,2 độ kinh Đông. Vùng áp thấp này nằm trên rãnh áp thấp có trục khoảng 15-18 độ vĩ Bắc và hiện đang di chuyển chậm theo hướng Tây.

Vùng áp thấp khả năng mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới, sau đó thành bão trên Biển Đông với xác suất cao. Ảnh minh họa 

 

Vùng áp thấp khả năng mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới, sau đó thành bão trên Biển Đông với xác suất cao. Ảnh minh họa

Chuyên gia khí tượng nhận định, trong 24 giờ tới, vùng áp thấp có khả năng mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới, với xác suất 80-90%.

“Sau đó, áp thấp nhiệt đới dự kiến di chuyển theo hướng Tây Bắc, tức về phía Bắc của vùng biển quần đảo Hoàng Sa, và có khả năng tiếp tục mạnh lên thành bão trong giai đoạn 48-72 giờ tới (từ ngày 12-13/6) với xác suất khoảng 60-70%”, chuyên gia thông tin.

Diễn biến còn phức tạp

Theo các chuyên gia khí tượng, vùng áp thấp vẫn đang trong giai đoạn hình thành và chưa phát triển thành áp thấp nhiệt đới.

Các hệ thống khí quyển chi phối như gió mùa Tây Nam, áp cao cận nhiệt đới… vẫn còn biến động và chưa ổn định, khiến cho quỹ đạo và cường độ phát triển của hệ thống này còn tiềm ẩn nhiều bất định.

Dựa trên các mô hình dự báo hiện tại, áp thấp nhiệt đới và bão (nếu hình thành) có khả năng ảnh hưởng đến phía Bắc Biển Đông, bao gồm vùng biển quần đảo Hoàng Sa, thậm chí một số khu vực phía Đông và giữa vịnh Bắc Bộ trong các tình huống xấu. Tuy nhiên, diễn biến thực tế còn phụ thuộc vào quá trình phát triển tiếp theo trong 1-2 ngày tới.

Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia đang theo dõi chặt chẽ, sẽ cập nhật kịp thời trong các bản tin tiếp theo để phục vụ công tác chỉ đạo và ứng phó của các cấp, các ngành.

Thời tiết nguy hiểm trên biển

Trong ngày và đêm nay, nhiều khu vực biển có thời tiết nguy hiểm. Trong đó, khu vực Bắc Biển Đông (bao gồm vùng biển quần đảo Hoàng Sa), giữa và Nam Biển Đông (bao gồm vùng biển quần đảo Trường Sa), vùng biển từ Bình Định đến Cà Mau, Cà Mau đến Kiên Giang và vịnh Thái Lan có mưa rào và giông mạnh. Trong cơn giông có khả năng xảy ra lốc xoáy, gió giật mạnh cấp 6-7, sóng biển cao trên 2m.

Vùng biển từ Ninh Thuận đến Cà Mau, giữa và nam Biển Đông có gió Tây Nam mạnh cấp 5, có lúc cấp 6, giật cấp 7-8, biển động, sóng cao từ 1,5-3m.

Toàn bộ tàu thuyền hoạt động trong các khu vực trên cần đặc biệt lưu ý nguy cơ cao xảy ra lốc xoáy, gió giật mạnh và sóng lớn.

Trung tâm khuyến cáo các cơ quan chức năng, người dân và lực lượng hoạt động trên biển cần thường xuyên theo dõi các bản tin cập nhật, chủ động các phương án phòng tránh và ứng phó kịp thời với mọi tình huống có thể xảy ra.

Người bán buột miệng không có chất này không bao giờ thành được đậu phụ

Đậu hũ (hay đậu phụ theo cách gọi của miền Bắc) là món ăn phổ biến vì rẻ tiền và lành tính nhất trong số các món ăn bổ sung nhiều chất đạm. Thế nhưng, khi chúng tôi được chứng kiến tận mắt công nghệ chế biến đậu hũ tại cơ sở, thì chỉ có thể thốt được hai từ: “kinh hoàng!”.

Từ lâu chúng tôi đã nghe râm ran chuyện nhiều cơ sở chế biến đậu hũ vì lợi nhuận đã bỏ thạch cao vào để tăng độ đông kết, trọng lượng đậu thành phẩm. Nhưng nghe nhiều mà chưa lần nào được mắt thấy. Lý do gần như duy nhất để các cơ sở từ chối là “bí quyết gia truyền”, vì hầu hết các cơ sở chế biến đậu hũ ở TPHCM, đều chỉ ở quy mô gia đình, dù mỗi ngày cho ra lò hàng trăm ký thành phẩm…

Sau nhiều lần “làm quen” với một chiến hữu  V. mới chịu giới thiệu chúng tôi với “ông anh kết nghĩa” chuyên làm đậu hũ ở P.Trung Mỹ Tây, Q.12, TPHCM để học nghề.

Đúng hẹn, chúng tôi có mặt tại cơ sở sản xuất. Đó là một căn nhà cấp 4 xập xệ, phía trước được dùng làm nhà ở, phía sau ngăn ra khoảng 30m2 để làm “phân xưởng” sản xuất. Chừng đó diện tích mà được bố trí một máy xay, hai lò nấu, một giàn khung ép đậu, một bể nhỏ dự trữ nước và hơn chục thùng, xô, chậu lớn nhỏ bày tứ tung trên nền xi măng ướt, rêu mốc loang lổ, để sản xuất đậu. Mùi chua nồng, hôi hám của xác bã đậu để lâu lên men, của nền nhà ẩm ướt và hình như của cả chuồng heo cách đó không xa…

Khi chúng tôi đến, vợ H. đang ép những khuôn đậu hũ của mẻ đầu tiên, còn H. lui cui xúc từng rổ đậu đã ngâm sẵn bỏ vào máy xay mẻ thứ hai. Chưa đầy 10 phút sau, khoảng 10 kg đậu hạt đã biến thành một thùng nước cốt đậu trắng nõn nà. H. lấy chiếc xô nhỏ múc nước đậu mới xay đổ vào vạc đặt sẵn trên lò lửa đỏ rực. Thêm hơn chục phút nữa, vạc nước đậu sôi lên ùng ục. Từng ca nước đậu lại được múc đổ vào chính chiếc thùng lúc nãy đựng nước đậu sống mà chẳng cần rửa, trong đó có để sẵn miếng vải xô đã ngả màu cháo lòng để lọc bã.

Khi đổ đầy thùng, H. túm bốn góc miếng vải kéo lên, lắc vài cái rồi ném cả miếng vải bọc bã vào chiếc thùng đầy bã đậu cũ gần đó. Trong lúc thùng nước đậu còn nóng hổi, H. lấy ca nhựa đến bên chiếc thùng ở góc xưởng, múc từ đây 3 thìa bột trắng mịn như xi măng trắng cho vào ca, đổ đầy nước, dùng tay hòa tan rồi đổ thẳng vào thùng nước đậu. Tiếp đó, anh ta lấy thìa nhôm dài đảo đều thùng nước đậu lên. Thật kỳ lạ, chỉ vài phút sau, cả thùng nước đậu bốc hơi nghi ngút từ từ đông đặc lại thành… cốt đậu. Rồi cứ thế, cốt đậu được múc lên những dãy khuôn chờ sẵn để ép thành những miếng đậu…

Cách nhận biết đậu phụ chứa thạch cao

Thứ bột trắng mịn như xi mắng trắng được H. cho biết là thạch cao. “Theo cách làm dân gian, đậu sau khi xay và nấu phải cho nước chua vào để tạo độ đông kết. Nhưng dùng nước chua thì độ đông kết thấp, khi ép sẽ rất hao. Thay nước chua bằng thạch cao, độ đông kết vừa cao vừa nhanh, khi ép rất ít hao mà đậu thành phẩm lại rắn, lợi nhuận gấp 2-3 lần dùng nước chua mà người tiêu dùng lại rất thích!” – H. “bật mí”.

Hằng ngày, vợ chồng H. sản xuất từ 19 giờ đến 2 giờ sáng hôm sau, được khoảng 10 mẻ đậu, mỗi mẻ xay 10 kg đậu hạt và sử dụng khoảng trên dưới nửa ký thạch cao. Loại thạch cao này do Công ty N.H sản xuất, H. cho biết có thể tìm mua ở các cửa hàng vật liệu xây dựng với giá 60.000 đồng/bao 40 kg.

“Có phải loại thạch cao để dùng nặn tượng không?” – chúng tôi hỏi. “Em cũng chẳng biết. Chỉ biết có hai loại thạch cao, một loại bột to, một loại mịn. Làm đậu thì mua loại mịn về làm, đông nhanh mà ăn không sạn”. Như hiểu được nỗi băn khoăn của chúng tôi, H. cười: “Em làm đậu 5-6 năm nay, bán ra mấy chợ trong thành phố mà thấy người ta ăn có ai chết đâu. Mà ở thành phố này đâu phải có mỗi cơ sở của em dùng thạch cao làm đậu hũ?”.

Đem chuyện thạch cao bỏ vào đậu hũ kể cho một chủ cơ sở ở P.Hiệp Thành, Q.12, nghe thì ông này khẳng định đó là “chuyện nhỏ”. K. – một chủ cơ sở sản xuất đậu hũ ở Thủ Đức, cho biết anh ta cũng dùng thạch cao để sản xuất đậu hũ từ mấy năm nay. “Tôi học được bí quyết này từ một cơ sở trong Chợ Lớn. Lúc đầu không biết, lại tham pha nhiều nên nếm đậu cứ thấy tê cả lưỡi. Giờ thì tốt rồi. Mỗi ngày tôi làm 1 tạ rưỡi đậu, đem giao cho các bếp ăn tập thể của các xí nghiệp, trừ hết chi phí cũng còn lời khoảng 500 ngàn đồng”.

Không chỉ dùng thạch cao để tăng lợi nhuận, D. quê ở Bắc Giang, một chuyên gia sống bằng nghề bán “công nghệ” làm đậu hũ cho một số gia đình từ miền Bắc vào, cho biết để tận dụng cả bọt đậu (nước đậu khi nấu lên thường có nhiều bọt, nếu hớt đổ đi sẽ rất hao), một số cơ sở còn dùng hóa chất khử bọt. “Loại hóa chất này sền sệt như mỡ heo, mua ở chợ Kim Biên giá chỉ 12-15 ngàn đồng/lít dùng cho cả tấn đậu. Trong lúc đang nấu, chỉ cần bỏ vài giọt hóa chất này pha loãng với nước rồi đổ vào là cả vạc đậu không có chút bọt nào” – D. giải thích. Cũng theo D., dùng thạch cao thì đậu sẽ bớt béo, vì thế một số cơ sở còn sáng chế cách bỏ bột béo vào trong đậu để đánh lừa cảm giác người tiêu dùng…

Hai cơ sở dùng thạch cao chế biến đậu phụ - Báo VnExpress

Để tìm hiểu thêm về thạch cao làm đậu hũ, chúng tôi liên lạc qua điện thoại với Công ty N.H theo chỉ dẫn. Một người nữ xưng là nhân viên Công ty N.H cho biết công ty không sản xuất thạch cao dùng trong thực phẩm, chỉ sản xuất thạch cao dùng cho công nghiệp. Tuy nhiên, ông H. – Giám đốc Công ty N.H lại khẳng định chắc nịch là N.H vẫn thường bán thạch cao làm đậu hũ với giá đến các đại lý là 1.450 đồng/kg.

Khi chúng tôi hỏi loại thạch cao này được cho phép dùng trong thực phẩm không thì ông H. “ậm ừ” rồi giải thích: “Nói chung về mặt kiểm nghiệm thì nguồn thạch cao từ xưa đến nay cũng chưa cho đưa vào danh mục để kiểm nghiệm trong thực phẩm, rất là khó. Nhưng mà tụi tui sản xuất bán cho trong thực phẩm thì tụi tui vẫn bán. Tại vì nó nung ở nồng độ cao mấy ngàn độ thì nó cũng đảm bảo vệ sinh lắm, không có gì mà ảnh hưởng (?). Tất cả các đậu hũ làm trên thị trường đều phải có thạch cao hết. Vì thạch cao làm chất xúc tác cho đậu hũ đông đặc. Cả các loại bánh kẹo, mứt cũng phải dùng thạch cao vì không có thạch cao nó đâu đông đặc được” (!).

Để kiểm chứng độ an toàn của thạch cao, chúng tôi đã lấy thạch cao vợ chồng H. dùng làm đậu đem đi thử nghiệm tại Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3 (TT3). Kết quả cho thấy, trong 1 kg thạch cao có 89,8% sulfat canxi (CaSO4), 17 mg kẽm, 8 mg đồng, 4 mg chì và 0,9 mg asen (thạch tín)… Trong khi đó, theo quy định hiện hành, những chất như kẽm, đồng, chì, asen bị giới hạn rất thấp trong thực phẩm, như asen là 0,05 mg/l… vượt quá những giới hạn này có thể gây ngộ độc, gây ung thư…

Theo các chuyên gia về vệ sinh an toàn thực phẩm, thực phẩm có thể bị ô nhiễm các kim loại nặng (như: chì, asen, kẽm, đồng, thủy ngân…) do việc sử dụng các nguyên liệu, phụ gia để chế biến không tinh khiết, có hàm lượng kim loại nặng vượt mức cho phép. Nếu bị ngộ độc cấp tính bởi asen (thạch tín), người bị ngộ độc có những biểu hiện như: khát nước dữ dội, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, mạch đập yếu, mặt nhợt nhạt rồi thâm tím, bí tiểu và tử vong nhanh chóng.

Nếu ngộ độc cấp tính do chì, ban đầu có cảm giác thấy vị ngọt, chát, sau đó là cảm giác nghẹn ở cổ, phỏng miệng, thực quản và dạ dày, tê tay chân, đau bụng dữ dội, tiêu chảy, co giật và có thể tử vong. Ngộ độc mạn tính các kim loại nặng là tình trạng thường gặp do ăn phải thức ăn có hàm lượng các nguyên tố kim loại nặng cao trong một thời gian dài. Kim loại nặng nhiễm từ từ vào cơ thể rồi tích lũy dần và gây hại cho cơ thể về sau. Kim loại nặng khi vào cơ thể thường tích lũy ở các cơ quan: gan, thận, não.

Nếu cơ thể bị tích lũy một lượng chì đáng kể, dần dần sẽ xuất hiện các triệu chứng nhiễm độc như: hơi thở hôi, sưng lợi, da vàng, đau bụng dữ dội, táo bón, đau các khớp xương, bại liệt ở tay, nước tiểu ít, thường gây sẩy thai ở phụ nữ. Nếu cơ thể nhiễm độc mạn tính đối với asen do tích lũy asen với liều lượng dù nhỏ trong một thời gian dài sẽ gây nên các biến chứng: da mặt xám, tóc rụng, đau mắt, đau tai, viêm dạ dày và ruột, cảm giác về sự di động bị rối loạn, làm kiệt sức… Trẻ em rất nhạy với kim loại nặng, cơ thể trẻ em hấp thụ chì có trong thực phẩm cao gấp hai lần so với người lớn.

Phát hiện chồng ng;oại t;ình vợ tr/ả th/ù bằng cách không thể cao tay hơn

“Vợ anh ngủ chưa?”

Ba giờ sáng, điện thoại chồng tôi sáng lên với tin nhắn ấy.

Tôi nằm ngay bên cạnh, tim như bị ai bóp nghẹt. Tay run lên, nhưng vẫn kịp gõ vài chữ:
“Cô ấy đi trực đêm, em có thể đến.”

Tôi muốn biết anh sẽ phản ứng thế nào. Và anh đã đến thật, mang theo chai rượu vang ngoại, ví hàng hiệu — không phải cho tôi, mà cho cô ta.

Kể từ đêm đó, tôi không còn là tôi của ngày hôm qua nữa.

Tôi là Thu Hà, 33 tuổi, y tá trưởng tại một bệnh viện quận ở Hà Nội. Chồng tôi – Tuấn – làm kinh doanh xuất nhập khẩu. Chúng tôi quen nhau năm tôi thực tập ở bệnh viện, khi anh còn là một cậu sinh viên mới tốt nghiệp đại học. Yêu nhau gần 3 năm, rồi cưới. Mười năm hôn nhân, tôi đã từng nghĩ mình là người phụ nữ may mắn. Anh không đánh tôi, không cờ bạc, không rượu chè, nhưng tôi đã nhầm một điều: anh ta ngoại tình một cách chỉn chu, lạnh lùng và có kế hoạch.

Chiếc điện thoại là khởi đầu. Tin nhắn đó không phải duy nhất. Chúng tôi đã xa nhau từ lúc nào không rõ — có lẽ từ khi tôi quá bận rộn với công việc, với con, với chuyện nhà cửa. Còn anh thì bận rộn với những buổi “giao lưu đối tác”, “họp khuya”, và… “bạn tri kỷ”.

Nhưng điều khiến tôi gục ngã không phải là việc anh có người khác. Mà là phát hiện ra anh đã chuyển toàn bộ tài sản đứng tên anh sang cho mẹ ruột, rồi sau đó âm thầm ly hôn đơn phương bằng cách dùng địa chỉ cũ để gửi giấy toà – một trò tinh vi để tôi không hề biết gì cho đến khi thời hạn kháng cáo đã trôi qua.

Một người bạn làm bên tư pháp giúp tôi xác nhận tất cả. Căn nhà chúng tôi đang ở – đứng tên mẹ chồng. Xe hơi – đứng tên công ty. Tài khoản ngân hàng – đã được rút sạch và khóa. Còn tôi, ngoài một chiếc xe máy tay ga cũ và vài bộ đồng phục bệnh viện, không có gì cả.

Tôi suy sụp. Tôi khóc nhiều đêm liên tục. Nhưng rồi, khi mọi thứ như đóng sập lại, tôi vô tình đọc được một đoạn tin nhắn trên tài khoản Zalo cũ anh quên đăng xuất trên máy tính:
“Chị ấy mà biết em đứng tên miếng đất đó, chắc chị lồng lên mất.”

 

Miếng đất? Tôi chưa từng nghe qua. Vị trí ở Hòa Lạc. Một khu đất được mua trước khi anh ta làm trò chuyển nhượng tài sản, và đứng tên người thứ ba – cô bồ, cô gái nhắn tin ba giờ sáng hôm ấy.

Một ý nghĩ lóe lên trong tôi.

Tôi bắt đầu hành trình mới: thu thập chứng cứ. Tôi không còn là một người vợ bị phản bội. Tôi là một người đi đòi lại sự công bằng, không chỉ cho bản thân, mà cho cả đứa con trai 6 tuổi vẫn ngày ngày hỏi “ba đâu rồi hả mẹ?”.

Tôi âm thầm chụp lại các tin nhắn, giao dịch ngân hàng, thông tin chuyển nhượng, sao kê lương, chứng từ thu nhập mà anh từng nộp khi vay mua nhà. Tôi ghi âm lại các cuộc nói chuyện anh lỡ lời qua điện thoại.

Tôi tìm đến luật sư. Một người bạn cũ thời đại học, giờ làm trong một văn phòng luật sư ở phố Thái Hà. Anh ta nghe xong câu chuyện, chỉ gật đầu:
“Nếu em muốn kiện lại, chị cần một lý do chính đáng để kháng án đặc biệt. Và bằng chứng là yếu tố sống còn.”

Tôi cười. Tôi đã chuẩn bị hết rồi.

Một tháng sau, tôi gửi đơn lên Toà án Nhân dân thành phố Hà Nội, yêu cầu xét xử lại vụ ly hôn vì bị lừa dối, tẩu tán tài sản, sử dụng thủ đoạn pháp lý để che giấu thông tin đối phương. Kèm theo là một bộ hồ sơ dày gần 200 trang gồm chứng cứ anh ta ngoại tình, kê khai sai tài sản, và cố tình trốn tránh trách nhiệm tài chính sau hôn nhân.

Khi Tuấn bị mời lên tòa, anh cười khẩy, nghĩ tôi đang vùng vẫy trong vô vọng.

Nhưng lần này, tôi không còn là người phụ nữ ngây thơ nữa.

Tôi không cần anh ta quay về.
Tôi cần anh ta phải trả giá.

Ngày ra tòa, tôi mặc áo sơ mi trắng, tóc búi gọn, không son phấn. Trong khi đó, Tuấn vẫn như mọi khi — bảnh bao, tự tin, ngạo nghễ. Bên cạnh anh là cô gái trẻ tôi từng thấy qua ảnh: nhỏ hơn tôi gần chục tuổi, váy ôm sát, môi đỏ chót, ánh mắt khiêu khích như thể đang tham dự một buổi lễ chiến thắng.

Họ nghĩ tôi sẽ khóc lóc, làm ầm ĩ, hoặc van xin như một người vợ thất thế.
Không, tôi chỉ mỉm cười nhẹ. Tôi không đến để giành lại chồng. Tôi đến để giành lại danh dự, quyền lợi, và cả tương lai của con tôi.

Tòa bắt đầu phiên làm rõ yêu cầu tái thẩm vì phát hiện tình tiết mới:
– Bị đơn có dấu hiệu lừa dối trong việc khai báo tài sản chung.
– Có dấu hiệu chuyển nhượng tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài chính.
– Đơn phương ly hôn không hợp lệ do không thông báo đúng địa chỉ cư trú thực tế của nguyên đơn.

Luật sư của tôi – anh Khánh – trình lên toàn bộ bằng chứng: ảnh chụp, đoạn ghi âm, lịch sử tin nhắn, giấy tờ chuyển nhượng. Đặc biệt là hợp đồng mua đất đứng tên bồ nhí được ký trong thời kỳ hôn nhân.

Gương mặt Tuấn biến sắc. Cô nhân tình cũng bắt đầu tái mét.

Tòa tạm hoãn để điều tra lại. Trong khoảng thời gian ấy, tôi khởi kiện dân sự riêng để yêu cầu chia lại tài sản chung, đòi quyền nuôi con, và đòi Tuấn bồi thường danh dự vì vu khống, bịa đặt lý do ly hôn.

Tuấn bắt đầu bị “sờ gáy”. Doanh nghiệp của anh vốn đang trong giai đoạn làm ăn khó khăn, bây giờ còn bị thanh tra thuế. Một vài người bạn làm ăn bắt đầu tránh mặt vì sợ bị “vạ lây”.

Hai tháng sau, một tin nhắn lạ đến máy tôi:

“Chị ơi, em xin lỗi… Em không biết chị là người như vậy. Em tưởng chị hiền, dễ bắt nạt, ai ngờ… Em cũng bị anh Tuấn lừa… Anh hứa cưới em, nói chị chỉ là vợ trên danh nghĩa…”

Là cô ta.

Cô nhân tình.

Tôi không trả lời. Nhưng tôi biết: ván cờ bắt đầu đảo chiều.

Tuấn không ngờ tôi lại có thể phản đòn mạnh như thế. Anh ta vốn quen với việc mọi thứ trong tay, từ phụ nữ đến pháp lý, đều do anh thao túng. Nhưng anh đã quên rằng: một người phụ nữ cam chịu có thể chịu đựng rất lâu, nhưng một khi tỉnh ra, cô ta sẽ là cơn bão mà không ai cản nổi.

Và cơn bão đã đến.

Cuối năm, tòa tuyên bản án tái thẩm:
– Hủy kết quả ly hôn trước đó.
– Xác nhận tài sản đất đai mua trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung.
– Yêu cầu bị đơn hoàn trả phần tài sản đã tẩu tán trái pháp luật.
– Giao con cho tôi nuôi, Tuấn phải cấp dưỡng hàng tháng.
– Đề nghị khởi tố hành vi trốn thuế từ giao dịch đất đai đứng tên người khác.

Tuấn bị tước danh dự trong giới kinh doanh. Một vài nhà đầu tư lớn rút khỏi dự án của anh. Từ một người đàn ông có vẻ ngoài thành đạt, anh bắt đầu sa sút. Còn cô nhân tình? Sau khi bị ép trả lại quyền sở hữu đất, cô cũng biến mất không dấu vết.

Ba tháng sau bản án, tôi nhận được cuộc gọi lúc đêm:
“Hà… anh sai rồi. Anh thực sự không ngờ em lại có thể làm được tất cả những điều này. Anh xin lỗi. Em quay về đi. Chúng ta làm lại từ đầu.”

Tôi im lặng. Rồi bật cười. Một nụ cười buồn, không còn oán giận.

Tôi đã quay về rồi, nhưng là với chính tôi.

Vài ngày sau, tôi gặp lại anh — không phải tại tòa, mà tại quán cà phê mà ngày xưa chúng tôi từng hẹn hò khi còn là sinh viên. Anh ngồi đó, gầy gò, tóc đã có sợi bạc, ánh mắt mỏi mệt.

Tôi chỉ nói một câu:
“Tôi tha thứ, nhưng không quay lại. Và cảm ơn anh, vì đã giúp tôi biết giá trị thật của bản thân mình.”

Một năm sau…

Tôi chuyển sang làm tại một bệnh viện tư nhân lớn. Thu nhập tốt hơn, môi trường chuyên nghiệp. Tôi học thêm quản trị y tế và hiện là phó phòng điều hành. Con trai tôi vẫn ngoan ngoãn, và tôi dành cả cuối tuần cho nó – không trực đêm, không phải che giấu nước mắt.

Tôi mua lại một căn hộ nhỏ gần hồ Tây – bằng chính tiền tôi dành dụm sau vụ kiện, cùng số tiền chia tài sản tôi giành được.

Có người từng hỏi tôi:

“Chị không tiếc thanh xuân à?”

Tôi chỉ cười:
“Không. Thanh xuân đó đã dạy tôi cách đứng lên. Và giờ, tôi đang sống phần đời mà trước đây chưa từng dám mơ tới.”

Đôi khi, kết thúc không phải là mất mát. Mà là một cánh cửa khác mở ra.
Và người phụ nữ, khi bước ra khỏi bóng tối, sẽ rực rỡ hơn bao giờ hết.

Giữa cánh đồng heo hút, nơi tre mọc bạt ngàn thành rừng, nơi nắng hanh chạm đất cũng dịu đi vì tán lá lay động, có một căn nhà nhỏ phủ rêu nằm nép mình giữa lặng yên. Ở đó, sống một người phụ nữ đã bước sang tuổi năm mươi, tên bà là Nương. Người dân quanh vùng hiếm khi thấy bà ra khỏi làng. Cuộc sống của bà như tách biệt khỏi thời gian – sáng ra giếng gánh nước, chiều tưới rau, tối ngồi bên ánh đèn dầu mờ, trò chuyện… với một con trâu bằng nan tre.

Giữa cánh đồng heo hút, nơi tre mọc bạt ngàn thành rừng, nơi nắng hanh chạm đất cũng dịu đi vì tán lá lay động, có một căn nhà nhỏ phủ rêu nằm nép mình giữa lặng yên. Ở đó, sống một người phụ nữ đã bước sang tuổi năm mươi, tên bà là Nương. Người dân quanh vùng hiếm khi thấy bà ra khỏi làng. Cuộc sống của bà như tách biệt khỏi thời gian – sáng ra giếng gánh nước, chiều tưới rau, tối ngồi bên ánh đèn dầu mờ, trò chuyện… với một con trâu bằng nan tre.

Người ta đồn đủ chuyện: bà bị điên, bà gọi hồn trâu, bà bị ám bởi một lời nguyền nào đó. Nhưng với bà Nương, điều đó chẳng quan trọng. Chỉ có bà mới biết rõ – đó không phải một con trâu vô tri làm từ tre. Đó là kỷ vật sống lại của một người bạn, của cả một thời thanh xuân đã mất.

Nương từng là một cô gái đầy sức sống. Cha mẹ mất sớm, cô một mình giữ lại căn nhà của tổ tiên, sống dựa vào ruộng nương và con trâu mà cô nuôi từ khi nó còn đỏ hỏn. Con trâu ấy – cô đặt tên là Khoai, vì nó đen bóng như củ khoai nướng mới vớt ra từ tro bếp. Khoai lớn lên cùng Nương. Từ buổi cày đồng đầu tiên đến lúc già đi, Khoai luôn là bạn đồng hành, là chỗ dựa, là “gia đình” thật sự của cô gái sống đơn độc nơi rừng vắng.

Khoai không giống trâu thường. Nó lanh lợi, tinh mắt và đặc biệt trung thành. Mỗi sáng, chỉ cần Nương vỗ nhẹ vào lưng, Khoai sẽ tự đi ra chuồng, đứng chờ được xỏ ách. Những chiều mưa, nó dùng thân mình che cho cô khỏi ướt. Có lần Nương bị ngất vì trúng nắng giữa đồng, chính Khoai đã cào đất, lấy mũi húc vào người cô cho đến khi cô tỉnh lại. Người trong làng bảo con trâu ấy có linh tính như người, như thể hiểu được lòng chủ.

Nương không lấy chồng, cũng không muốn sinh con. Với cô, tình thân không nhất thiết phải là máu mủ – có một người bạn thật lòng, một con vật biết lắng nghe, vậy là đủ.

Nhưng cuộc đời không cho ai mãi mãi giữ lấy những điều quý giá. Một năm, lũ tràn về đột ngột, nước dâng ngập đồng chỉ trong vài giờ. Hôm đó Nương và Khoai đang làm ruộng xa làng, không kịp trở về. Nước cuốn ào ào, bùn đất sụt lở, cây cối trôi băng băng như cỏ rác. Nương vùng vẫy, không biết bám vào đâu, thì bất ngờ bị đẩy mạnh lên bờ – bởi Khoai đã lấy thân húc cô lên, rồi bị dòng nước nhấn chìm ngay sau đó.

Tiếng gọi tên Khoai của Nương hòa vào tiếng mưa gió, đau đớn đến xé lòng. Người dân tìm thấy cô ngất đi bên bờ ruộng hôm sau, đôi mắt mở to nhưng vô hồn.

Từ ngày ấy, căn nhà của Nương không còn tiếng cười, không còn tiếng mõ trâu lạch cạch. Mỗi ngày cô chỉ ra sau nhà ngồi hàng giờ dưới rặng tre. Không cày ruộng. Không gieo trồng. Người ta đến rủ làm thuê, cô lắc đầu. Cô sống như một cái bóng, chỉ tồn tại, không thật sự sống.

Một ngày đầu thu, khi gió rừng thổi mạnh làm tre kêu răng rắc, Nương tình cờ thấy một thân tre già ngã đổ. Cô đến gần, đặt tay lên lớp vỏ mát lạnh thô ráp. Không hiểu sao, trong lòng cô chợt dấy lên một ý nghĩ kỳ lạ – nếu trâu không còn, tại sao mình không “gọi” nó về?

Thế là từ ngày hôm đó, Nương bắt đầu một hành trình không ai hiểu nổi. Cô dậy sớm, đi sâu vào rừng tre tìm những thân già đã khô, đem về phơi, chẻ nhỏ, gọt giũa. Mỗi đốt tre, mỗi đường cong thân trâu, mỗi cặp sừng, cô đều tỉ mẩn làm bằng cả trí nhớ và tình yêu thương.

Mỗi đêm, khi ánh đèn dầu rọi vào chiếc đầu trâu đang làm dở, Nương lại mỉm cười – nụ cười mà đã bao năm người ta không còn thấy.

Con trâu tre dần thành hình. Nó không giống một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo – nó thô mộc, có những vết lệch, những chỗ vá tạm, nhưng nhìn vào, ai cũng thấy nó sống động lạ thường. Mắt nó làm bằng hai hòn đá cuội đen nhánh, ánh lên trong đêm như có hồn. Cái đuôi bằng dây tre được tết cẩn thận, mỗi khi gió lay, nó đung đưa như thật.

Người làng bắt đầu chú ý. Có người tò mò, có người sợ sệt. Bọn trẻ con ban đầu chạy lại chơi, rồi nghe người lớn dọa “trâu ma”, chúng cũng tránh xa.

Riêng Nương thì ngày càng gắn bó với nó. Cô đặt tên lại cho nó – vẫn là Khoai. Mỗi sáng cô mang bó cỏ đặt trước miệng nó. Mỗi tối, cô vuốt ve lưng nó và kể chuyện:

“Bữa nay má ra ruộng lại rồi. Nhớ lúc con còn sống, má đâu có đi một mình.”

Rồi một đêm, khi trời nổi giông bất ngờ – y hệt như đêm năm xưa – Nương giật mình tỉnh giấc vì có tiếng động lạ: tiếng móng trâu cộp cộp rất rõ. Cô lao ra hiên nhà. Trâu tre vẫn đứng đó, nhưng ướt sũng, thân dính đầy bùn non.

Cô nhìn xuống nền đất: vết kéo dài từ phía rừng vào sân nhà, in dấu rõ ràng những vết chân trâu to nặng.

Người trong làng không ai tin, bảo là mưa làm ngập, trâu bị gió quật đổ. Nhưng Nương thì biết – Khoai đã về. Dù chỉ là hình bóng, nhưng nó đã trở lại với cô, như lời hứa năm xưa dưới rặng tre.

Từ cái đêm mưa ấy, bà Nương sống như người được hồi sinh. Người ta thấy bà mỗi sáng dắt “con trâu tre” ra bãi cỏ trước nhà, tay cầm chiếc roi mây cũ, miệng huýt sáo khe khẽ. Cảnh tượng ấy lạ lùng và cũng khiến người ta ái ngại. Họ nghĩ bà đã điên thật rồi – mất con trâu, mất cả lý trí.

Nhưng không ai biết rằng đêm nào bà cũng nghe rõ tiếng thở phì phì sát bên tai, tiếng lục lạc leng keng nơi cổ trâu, và cả ánh mắt trong veo dưới hai hòn đá cuội. Có đêm, bà còn thấy như mình đang được chở đi giữa cánh đồng – cảm giác rung nhẹ dưới chân, mùi da trâu, hơi ấm thân thuộc len vào giấc mơ.

Bà không sợ. Bà hạnh phúc.

Một tháng sau đêm mưa, có chuyện lạ xảy ra. Một buổi sáng mùa đông, khi sương còn dày như khói, có đứa bé trai chừng tám tuổi lạc trong rừng tre. Gia đình nó là người thành phố, về quê chơi, lúc không để ý thì thằng bé chạy theo con bướm lạc vào trong rừng.

Cả làng huy động người đi tìm. Rừng tre dày rậm, lại nhiều hố sâu và thú hoang. Ai nấy đều lo thắt ruột.

Đến tối, khi người lớn đang chuẩn bị dừng tìm thì thằng bé bất ngờ tự đi ra, người dính đầy lá tre, tay ôm một chiếc mũ nan. Nó vừa khóc vừa kể:

“Con sợ lắm… nhưng có một con trâu to, sáng lấp lánh, dắt con đi ra. Nó kêu “ngộp quá” nên con đi theo. Nó đi không có tiếng chân… giống như trôi trên đất vậy đó…”

Người lớn bán tín bán nghi, nhưng bà Nương chỉ ngồi yên, mắt bà rưng rưng. Cái mũ nan đứa bé ôm – chính là mảnh bà dùng làm tai trái cho Khoai, từng bị gió cuốn mất.

Từ hôm đó, dân làng nhìn trâu tre với con mắt khác. Dù chẳng ai dám thừa nhận, nhưng dường như con vật đó mang một phần linh hồn thật – của tình cảm, của nhớ thương, và của sự sống dai dẳng giữa cô quạnh.

Thời gian trôi, bà Nương già yếu dần. Tay bà run không còn đan tre được nữa. Mắt bà mờ, nhưng mỗi sáng vẫn lò dò ra vuốt ve con trâu. Người ta thương, có khi giúp bà lau bụi, che cho trâu khỏi mưa. Bọn trẻ bắt đầu gọi đó là “Trâu Ông Khoai” – như một câu chuyện cổ tích sống động giữa đời thường.

Một hôm, bà Nương nhờ người mang trâu vào trong rừng tre – đúng chỗ bà từng nhặt được thân tre đầu tiên. Bà nói, giọng nhẹ như gió:

“Khoai nó thích rừng… để nó ở đó, nghe tre kể chuyện.”

Người ta làm theo. Con trâu tre được đặt giữa bãi đất nhỏ dưới gốc tre già, nhìn về phía đồng ruộng. Nơi đó, bà Nương ngồi cạnh suốt một buổi chiều, không nói gì. Chỉ có gió rì rào và đôi mắt xa xăm của người đàn bà mang trái tim không chịu già theo năm tháng.

Vài ngày sau, bà mất. Nhẹ nhàng, như đi vào giấc ngủ. Trên tay vẫn cầm một bó cỏ khô và chiếc dây thừng cũ.

Người làng không chôn trâu tre. Họ dựng lại chỗ cũ trong rừng, đặt bảng nhỏ bên dưới ghi dòng chữ:

“Khoai – người bạn của bà Nương. Một con trâu bằng tre. Một linh hồn bằng tình yêu.”

Mỗi năm, đến ngày giỗ bà Nương, người ta lại mang hoa ra rừng tre, trẻ con lại kể lại câu chuyện con trâu dắt bé trai lạc đường ra khỏi rừng. Với thế hệ mới, đó là huyền thoại. Với những người lớn tuổi, đó là sự thật không cần bằng chứng.

Và ai đi qua rừng tre vào những chiều sương xuống, nếu tinh ý, có thể nghe thấy tiếng thở nhè nhẹ giữa tiếng tre reo – như một lời thì thầm của bạn bè, vượt thời gian mà không phai mờ.

Không phải mọi tình thương đều cần hồi đáp bằng lời. Có những mối quan hệ không ràng buộc, không tên gọi, không máu mủ – nhưng lại sâu hơn cả ruột rà. Một người và một con trâu, một ký ức được làm bằng tre, nhưng chứa cả trái tim người sống.

Bà Nương không điên. Bà chỉ dám sống một cách trọn vẹn – bằng tất cả những gì bà từng yêu.

Đ;ột nhập cơ sở kinh doanh điều hòa không rõ nguồn gốc

Xử lý cơ sở kinh doanh điều hòa cũ không rõ nguồn gốc xuất xứ ở Hải Dương

Xử lý cơ sở kinh doanh điều hòa cũ không rõ nguồn gốc xuất xứ ở Hải DươngHiện trạng số tài sản bị cơ quan chức năng tịch thu. Ảnh: Cục QLTT tỉnh Hải Dương

Trước đó, qua triển khai các biện pháp nghiệp vụ, ngày 12.4, Đội Quản lý thị trường số 1 Cục Quản lý thị trường tỉnh Hải Dương phối hợp với Phòng Cảnh sát Kinh tế Công an tỉnh kiểm tra đột xuất đối với cơ sở kinh doanh máy điều hòa nhiệt độ do ông Đoàn Văn H làm chủ, phát hiện ông H đang kinh doanh 17 cục nóng và 17 cục lạnh điều hòa các loại không rõ nguồn gốc xuất xứ; cơ sở này còn không có đăng ký kinh doanh cũng như không niêm yết giá hàng hóa theo quy định.

Ngày 22.4, Cục Quản lý thị trường tỉnh Hải Dương đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính 33.250.000 đồng đối với ông Đoàn Văn H về 3 hành vi vi phạm hành chính, gồm: không đăng ký thành lập hộ kinh doanh trong những trường hợp phải đăng ký theo quy định; kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ; không niêm yết giá hàng hóa tại địa điểm phải niêm yết giá theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, tịch thu hàng hóa vi phạm gồm nhiều cục nóng, cục lạnh điều hòa các loại với tổng trị giá trên 50.000.000 đồng.

Cục Quản lý thị trường tỉnh Hải Dương khuyến cáo các mặt hàng gia dụng sử dụng điện nói chung, điều hòa nói riêng có nguy cơ cao về an toàn phòng chống cháy, nổ; việc sử dụng các thiết bị điện, kể cả cũ hay mới, nếu không được kiểm tra, kiểm định rất dễ dẫn đến nguy cơ mất an toàn, xảy ra chập cháy, đặc biệt là trong thời gian tới khi nhiệt độ tăng cao, nhu cầu sử dụng điện lớn.

Sáng đưa ta::ng bố chồng, chiều mẹ chồng đã vội vã xách túi quần áo trở lại thành phố đi làm, không một giọt nước mắt rơi.

Sáng hôm đó, trời âm u như thể cũng mang tâm trạng của cả nhà. Bố chồng tôi qua đời sau một cơn bạo bệnh, để lại khoảng trống không dễ gì lấp đầy. Cả làng cả xóm đến viếng, người thân từ xa kéo về. Trong cái lạnh se sắt của buổi sáng sớm, người ta thầm thì không phải về người đã khuất – mà là về vợ ông, mẹ chồng tôi.

“Không thấy bà ấy khóc à?”
“Lạnh như băng ấy chứ!”
“Cả đời ông ấy hiền lành, thương vợ mà… Sao giờ bà ta…”

Tôi cúi đầu, nghe mà lòng nặng trĩu. Mẹ chồng tôi ngồi ở mép chiếc phản gỗ, lưng thẳng như kẻ sĩ chứ không như người đang chịu tang. Bà không khóc, không than, không một câu kể lể. Chỉ gật đầu chào người đến viếng, rồi lại lặng im. Khi lễ tang kết thúc vào giữa trưa, tôi quay đi dọn mâm cỗ, quay lại thì bà đã xách vali, gọi taxi, lặng lẽ lên thành phố. Mọi người trố mắt nhìn. Không một giọt nước mắt, không một lời từ biệt.

Đến chiều, sóng gió thật sự bắt đầu.

Năm người cô bên chồng tôi – tức năm chị em gái của bố chồng – xuất hiện, mỗi người một vẻ nhưng ai cũng tức tối. Họ vào nhà, không kịp chào hỏi ai, lao vào buồng giữa như một cơn bão:

“Nó đâu rồi? Nó bỏ đi như thế là sao?”
“Chồng chưa kịp yên nghỉ đã xách vali chạy đi, đúng là đàn bà vô tình!”
“Cả đời anh tôi nuôi nó, yêu chiều nó, giờ thì thế đấy!”

Tôi đặt mâm cơm xuống, tim đập thình thịch. Làm dâu ba năm, tôi hiểu rõ từng nét tính khí của các cô. Họ thương bố chồng tôi thật, nhưng cũng chẳng bao giờ ưa mẹ chồng tôi. Những mâu thuẫn âm ỉ bấy lâu giờ có cớ để bùng phát.

Tôi nhìn chồng – anh cúi đầu, lặng im. Có lẽ anh cũng đang khó xử như tôi.

Bữa cơm tang trở thành nơi trút giận. Những lời lẽ cay nghiệt liên tiếp được tung ra. “Đồ đá lạnh”, “Sống không có tình người”, “Con dâu mà cũng chẳng ra gì” – họ nói về mẹ chồng tôi như thể bà là tội đồ.

Tôi ngồi lặng một lúc. Rồi đứng dậy.

“Con xin lỗi, nhưng con nghĩ cần nói điều này.”

Mọi ánh mắt đổ dồn vào tôi. Một cô lớn tuổi lên tiếng, giọng gằn:

“Cháu dâu mà lại bênh cái loại không ra gì ấy à?”

Tôi hít một hơi thật sâu.

“Con không bênh ai cả. Nhưng nếu các cô hỏi vì sao mẹ con không khóc, thì con nghĩ… không phải vì bà không đau. Mà vì bà đã khóc cạn nước mắt trong bao nhiêu năm rồi. Chẳng ai sống bên một người đàn ông gần nửa đời người mà có thể vô tình với cái chết của họ được… nếu người đó không từng gánh chịu tất cả một mình.”

Mọi người sững lại. Không ai nói gì. Tôi cúi đầu, rời khỏi bàn cơm, nước mắt trực trào. Tôi không biết những lời ấy có quá lời không. Nhưng tôi đã quá mệt khi nhìn thấy sự cay nghiệt trút lên một người đàn bà chỉ vì bà không khóc.

Tối hôm đó, tôi không ngủ được. Tôi nhìn tấm ảnh bố chồng đặt trên bàn thờ, rồi nhìn sang cái tủ gỗ mà mẹ chồng vẫn dùng để cất thuốc, kim chỉ, những cuốn sổ nhỏ bà vẫn ghi chép. Tôi mở ra. Trong đó, tôi thấy những trang giấy chi chít chữ, từng khoản chi tiêu, từng gói thuốc, từng cơn bệnh của chồng. Không một dòng than thở. Nhưng nét chữ ấy, như thấm đẫm nước mắt khô cạn của bà.

Tôi biết, tôi cần hiểu rõ hơn. Và tôi sẽ tìm đến bà – không phải với tư cách con dâu, mà là một người phụ nữ muốn hiểu một người phụ nữ khác.

Hai ngày sau đám tang, tôi xin chồng nghỉ vài ngày để lên thành phố thăm mẹ chồng. Không báo trước, tôi bấm chuông căn nhà nhỏ ở một khu tập thể cũ – nơi bà sống một mình suốt hơn 10 năm qua. Bà mở cửa, có phần bất ngờ khi thấy tôi, nhưng không hỏi lý do. Chỉ lặng lẽ đặt ấm nước lên bếp.

Căn nhà vẫn gọn gàng, sạch sẽ như lần đầu tôi đến. Nhưng hôm nay, nó lạnh. Không phải vì thời tiết – mà vì người đàn bà ngồi trước mặt tôi, ánh mắt trống rỗng, lặng lẽ như đang lắng nghe tiếng vọng từ một thời xa xăm.

“Mẹ… có ổn không ạ?” – Tôi hỏi.

Bà gật đầu, không nói gì. Tôi chờ. Một lúc lâu sau, bà rót trà, giọng khàn khàn:

“Mẹ ổn. Quen rồi. Hồi ông ấy còn sống, mẹ cũng toàn một mình thế này.”

Tôi siết tay vào tách trà. Như thể một cái chốt nào đó trong lòng tôi bật mở, tôi không kiềm được mà nói:

“Hôm đó… sau khi mẹ đi, các cô kéo đến… họ nói mẹ là người lạnh lùng, vô ơn… Con biết mẹ nghe nhiều rồi, nhưng con vẫn muốn mẹ biết, con không tin điều đó. Vì suốt ba năm làm dâu, con thấy mẹ là người sống tình cảm, chỉ là… mẹ không nói ra.”

Bà nhìn tôi, ánh mắt không giấu nổi chút bối rối. Bà chớp mắt mấy lần rồi quay mặt đi, giọng trầm xuống:

“Họ có quyền nghĩ như vậy. Họ chỉ thấy mẹ không khóc, chứ họ đâu thấy mẹ từng thức trắng mấy đêm chăm ông ấy nằm viện, lau người, xoa bóp, dỗ từng thìa cháo. Cũng không thấy những đêm mùa đông, mẹ đi bộ gần cây số để mua thuốc vì sợ gọi xe tốn tiền…”

Bà ngừng lại, chậm rãi đứng dậy, mở ngăn kéo, lấy ra một bọc giấy nhỏ, trong đó là cuốn sổ đã cũ. Những con số, ngày tháng, những dòng ghi chép cẩn thận – từng lần mua thuốc, từng ngày đưa ông đi khám, từng đêm mất ngủ, từng khoản nợ lặt vặt bà âm thầm trả thay…

“Đám cưới các cô ấy, học phí con cái họ, tiền viện phí cho mẹ chồng – một tay ông bà lo. Nhưng là mẹ đứng sau lo hết. Mẹ không trách ai cả. Mẹ sống quen rồi, không cần ai hiểu.”

Tôi nhìn bà, lòng nghẹn lại.

“Vậy… sao mẹ không nói? Sao mẹ không một lần nói với mọi người? Kể cả trong đám tang… sao mẹ không khóc?”

Bà mỉm cười – nụ cười buồn nhất mà tôi từng thấy ở một người đàn bà.

“Con biết không, nước mắt là thứ… phải còn cảm xúc mới có thể rơi. Mẹ đã khóc gần nửa đời người rồi. Khóc vì tủi thân, vì cô đơn, vì bị hiểu lầm, vì sống như cái bóng trong một gia đình mà chồng thì hiền lành nhưng chưa bao giờ thật sự hiểu vợ. Đến lúc ông ấy nhắm mắt… mẹ đau, nhưng nước mắt không còn nữa. Mẹ muốn đi ngay sau đám tang vì sợ… nếu ở lại, mẹ sẽ gục ngã thật sự.”

Tôi bật khóc. Không phải vì thương mẹ chồng – mà vì lần đầu tiên, tôi thật sự thấu hiểu bà. Một người phụ nữ cả đời sống đúng mực, không than phiền, không đòi hỏi. Cái giá của sự “mạnh mẽ” là bị mang tiếng “lạnh lùng”. Cái giá của “hy sinh” là bị gán cho hai chữ “vô ơn”.

Tôi về quê sau đó, mang theo cuốn sổ cũ mà bà đưa tôi giữ lại “cho con biết mẹ không vô tình như người ta nói”.

Vài hôm sau, tôi xin phép chồng đứng ra tổ chức một buổi giỗ nhỏ đầu tiên cho bố chồng. 5 người cô bên chồng đến, vẫn mang nét mặt không ưa mẹ chồng tôi.

Tôi lặng lẽ rót trà, mời ngồi. Rồi đặt cuốn sổ lên bàn, chậm rãi:

“Hôm nay con xin phép nói một lần, thay mẹ chồng con.”

Họ ngạc nhiên.

“Con không muốn cãi, cũng không phải bênh. Nhưng con nghĩ… đã đến lúc mọi người cần nhìn lại. Mẹ con không khóc trước mặt mọi người, không có nghĩa là bà không đau. Bà đã đau suốt mấy chục năm, trong lặng lẽ. Mọi người trách bà vô ơn… nhưng con xin hỏi, trong suốt những lần bố con nhập viện, ai là người thức đêm trông ông, ai đi vay nóng để trả viện phí, ai chăm từng miếng ăn, từng viên thuốc? Có ai từng hỏi bà một câu không?”

Tôi đẩy cuốn sổ ra giữa bàn.

“Tất cả ở đây. Không phải để kể công. Mà để hiểu rằng… nếu không thể yêu thương một người, thì ít nhất, xin đừng phán xét họ từ cái nhìn nông cạn.”

Căn phòng im lặng. Một người cô run run mở sổ, đọc vài dòng rồi thở dài:

“Tôi… tôi không biết…”

Người cô út, nhỏ nhẹ:

“Hồi đó chị Hai cứ âm thầm làm hết, chẳng bao giờ kể. Mình nghĩ gì cũng toàn từ suy đoán…”

Tôi không nói gì thêm. Chỉ cúi đầu, lặng lẽ dọn mâm cơm.

Mẹ chồng tôi không trở về dự buổi giỗ năm đó. Bà nói: “Để dành cho người sống tưởng nhớ người mất, mẹ không cần ai nhớ mẹ cả.” Nhưng tôi biết, sau hôm ấy, bà bắt đầu nhận được nhiều cuộc gọi hỏi thăm hơn từ những người trước đây chỉ biết trách bà. Một vài cô thỉnh thoảng gửi quà, gửi thuốc, có khi chẳng nói gì nhiều, chỉ là vài dòng: “Chị giữ gìn sức khỏe.”

Tôi không kể lại với bà. Nhưng tôi biết bà hiểu. Vì lần cuối gọi điện, giọng bà nhẹ đi một chút:

“Mẹ không trách họ đâu. Người ta sống cả đời tin rằng phụ nữ phải khóc mới là thương. Mẹ chỉ khác thôi. Cám ơn con, đã nhìn thấy mẹ.”

Lấy chồng đã mười năm nhưng vẫn chưa một lần được làm mẹ, em đã rong ruổi khắp các bệnh viện lớn nhỏ ở Hà Nội để chữa trị h/iếm m/uộn. Sau bao lần khám xét, điều trị mà không có kết quả, em quyết định tạm nghỉ việc, một mình vào TP.HCM tiếp tục hành trình gian nan ấy.

“Mẹ xin lỗi con… nhưng hai đứa ly hôn được không?”

Mười năm làm dâu, mười năm hy vọng – và cũng là mười năm nước mắt. Tôi chưa từng nghĩ khoảnh khắc ấy sẽ đến, càng không ngờ chính tôi lại gật đầu… dễ dàng đến thế. Nhưng chính giây phút đó, định mệnh đã mở ra một con đường mà cả tôi và chồng không bao giờ lường trước.

Tôi tên là Lan. Ba mươi bảy tuổi. Gương mặt tôi không còn căng bóng như thuở hai mươi lăm, lúc bước chân về làm dâu nhà chồng – một gia đình gia giáo, nề nếp, yêu thương và đầy kỳ vọng. Ngày cưới, tôi từng nghĩ mình là người phụ nữ may mắn nhất đời.

Thế nhưng “may mắn” đó không đi kèm với món quà lớn nhất mà một người phụ nữ mong mỏi: một đứa con.

Chồng tôi là con trai duy nhất của trưởng họ. Nhà chồng không đặt nặng chuyện con trai nối dõi như nhiều gia đình khác, nhưng càng yêu thương tôi, họ càng đau lòng mỗi năm nhìn tôi tàn héo vì áp lực mang tên “hiếm muộn”.

Tôi đã từng là giáo viên cấp ba, lương không cao nhưng ổn định. Sau hai năm chạy chữa ở Hà Nội mà không kết quả, tôi xin nghỉ việc không lương để toàn tâm chữa trị. Vào Sài Gòn, tôi ở trọ một mình, vác đơn đi khắp các phòng khám lớn nhỏ, có ngày ngồi chờ khám từ 5 giờ sáng đến 10 giờ tối, về đến phòng trọ thì bật khóc vì đau đớn và kiệt sức.

Thấy không ăn thua, tôi bắt đầu tìm đến những nơi được gọi là “mát tay”: thầy thuốc đông y, thầy cúng, đền điện… Ai giới thiệu ở đâu tốt, tôi cũng tìm tới. Có lần, một bà thầy ở Bắc Ninh bảo tôi “phải có căn”, phải “chuộc lỗi với vong nhi” từ kiếp trước. Tôi không tin, nhưng vẫn cắn răng theo vì… tôi chẳng còn gì để mất.

Tôi uống hàng chục loại thuốc bổ, hàng trăm viên thực phẩm chức năng, mỗi tháng tiền thuốc hơn cả lương chồng. Tôi không biết đã bao nhiêu lần nằm trong phòng khám, nhìn lên trần nhà trắng xoá, nước mắt cứ thế rơi xuống tai. Tôi tự nhủ: chỉ cần có con, tôi sẽ làm tất cả.

Ngoại hình tôi tàn tạ. Da sạm, mặt nổi mụn do hormone thay đổi. Cân nặng dao động liên tục. Nhìn tôi trong gương, tôi không còn nhận ra người phụ nữ từng được gọi là “hoa khôi” khoa Ngữ Văn ngày nào.

Nhưng gia đình chồng chưa từng một lời trách mắng. Mẹ chồng thường xuyên gửi thực phẩm sạch từ quê lên cho tôi bồi bổ. Có lần bà còn gọi riêng cho tôi, dặn:

“Con đừng lo nghĩ quá, chuyện con cái là cái số. Đừng để áp lực làm tổn thương bản thân.”

Tôi biết, họ đang cố gắng. Và tôi cũng vậy.

Cho đến hôm đó – tròn 10 năm ngày cưới. Mẹ chồng lên thăm, bà im lặng rất lâu, rồi nắm tay tôi run run:

“Mẹ xin lỗi con… nhưng hai đứa ly hôn được không? Nhà mình chỉ có một mình thằng Thành. Bố nó cũng đã yếu rồi… mẹ không dám đợi thêm nữa.”

Tôi cười. Một nụ cười kỳ lạ, không giận dữ, không nước mắt. Mười năm, tôi đã tự chuẩn bị mình cho câu này. Tôi gật đầu. Gọn lỏn. Nhẹ bẫng.

Chồng tôi – Thành – lúc đó đi công tác nước ngoài. Khi anh về, đơn ly hôn đã ký xong. Tôi không đợi giải thích, không níu kéo. Anh im lặng, chỉ nhìn tôi rất lâu rồi quay mặt đi.

Tôi về quê mẹ, sống một cuộc sống khác, không còn kim tiêm, không còn xét nghiệm, không còn hy vọng và cũng chẳng còn thất vọng. Tôi tưởng rằng, đời mình thế là xong…

Cho đến ba tháng sau, tôi thấy buồn nôn, chóng mặt. Tôi tưởng mình bị cảm lạnh. Nhưng không.

Tôi đã mang thai.

Khi que thử thai hiện hai vạch, tôi ngồi sụp xuống sàn nhà vệ sinh, nước mắt trào ra như chưa bao giờ được khóc. Mười năm, bao nhiêu lần siêu âm trắng tay, bao nhiêu lần thử thai chỉ một vạch – nay lại là thật. Không thuốc kích trứng, không thụ tinh ống nghiệm, không gì cả… chỉ là một phép màu muộn màng.

Tôi đi khám thai một mình, ôm hồ sơ thai kỳ mà tay vẫn run. Bác sĩ bảo thai tim yếu, cần nghỉ ngơi tuyệt đối, tránh xúc động mạnh. Tôi chẳng dám đi lại nhiều, suốt ngày nằm trong phòng mẹ.

Tôi không báo cho nhà chồng cũ, cũng không báo cho Thành. Không phải vì giận. Mà vì tôi không biết liệu mình có đủ sức giữ lại đứa bé. Tôi sợ hy vọng. Sợ rằng một lần nữa, tôi phải mất đi điều quý giá nhất khi vừa mới chạm vào nó.

Thế nhưng thai nhi vẫn phát triển. Chậm, nhưng ổn định. Đến tháng thứ 5, tôi quyết định nói cho Thành.

Anh lái xe về trong đêm, đứng trước cửa nhà mẹ tôi suốt gần hai tiếng mà không gõ. Tôi ra mở cửa, anh chỉ hỏi một câu:

“Là con anh sao?”

Tôi gật đầu. Cả hai im lặng. Rồi anh quỳ xuống, đặt tai lên bụng tôi – nơi sinh linh nhỏ bé đang lớn dần trong tôi – và khóc. Lần đầu tiên tôi thấy người đàn ông ấy khóc như đứa trẻ.

Mẹ anh lên sau đó một tuần. Bà không nói gì, chỉ ôm tôi thật lâu, rồi ôm bụng tôi như ôm một giấc mơ mà cả nhà đã chờ đợi suốt bao năm. Không ai nhắc gì về quá khứ. Không ai đòi tôi phải quay lại. Tôi vẫn ở nhà mẹ ruột cho đến khi sinh con – một bé gái nặng 2,9 kg, da trắng hồng như thiên thần.

Thành đến đúng lúc tôi ra phòng hồi sức. Anh đặt tay lên tay tôi, siết chặt và nói:

“Nếu em cho phép, anh muốn bắt đầu lại. Dù là người yêu, bạn đời hay chỉ là người cha – anh vẫn muốn ở cạnh mẹ con em.”

Tôi không trả lời ngay. Mười năm là đủ để một người đàn bà hiểu: tình yêu không chỉ là hôn nhân, mà là sự có mặt bên nhau đúng lúc, đúng cách

Câu nói năm xưa giờ vẫn ám ảnh tôi, nhưng tôi không còn oán trách. Vì nếu không có giây phút gật đầu buông tay ấy, tôi đã không có được ngày hôm nay – một ngày mà tôi được làm mẹ, và được sống một cuộc đời đúng nghĩa.

Cả nước hướng về Hà Nội: Trời ơi bố mẹ không biết cứ mua về cho c:.on ăn thôi, lên cả VTV rồi kinhkhung thật

Phóng viên VTV bị nhóm người cản trở, yêu cầu cung cấp thẻ nhà báo khi ghi hình bãi rác bánh, kẹo, đồ ăn vặt tại La Phù: “Các bạn cứ ra bãi rác để rình cái x,ấu, cái người ta bỏ đi rồi quan tâm làm gì? Cái đó người ta ở đâu đến đây vứt làm ảnh hưởng tới uy tín của làng nghề”.

Hà Nội – Hàng tấn bánh kẹo, thực phẩm có bao bì in chữ Trung Quốc bị đổ thẳng ra bãi rác tại xã La Phù, huyện Hoài Đức.

Giáo viên cả nước đời đời nhớ ơn ông Phan Văn Mãi: Đề xuất thế này mới là đề xuất chứ, đời nhà giáo sắp sang trang mới rồi

Ông Phan Văn Mãi đề xuất nên có chế độ tiền lương gấp 2, gấp 3 lần để tuyển chọn được những người ưu tú nhất làm giáo viên.

Giá vàng trưa hôm nay: B:ẬT TĂNG không đỡ nổi mà nhiều người vẫn khóc

Cập nhật giá vàng sáng 10.6: Thị trường vàng thế giới bật tăng trong bối cảnh đồng USD yếu đi.