Tôi tên là Hòa, năm nay 67 tuổi. Suốt cả cuộc đời, tôi sống ở quê – nơi có mảnh vườn nhỏ, căn nhà cấp bốn và những hàng cau thẳng tắp do chồng tôi trồng từ khi chúng tôi còn trẻ. Ông ấy mất cách đây hơn 10 năm, để lại tôi cô quạnh. Khi ấy, con trai tôi, Thành, đang làm việc ở thành phố. Nó bảo:
– Mẹ lên ở với vợ chồng con đi, cho vui. Cháu nó cũng sắp đi học, mẹ ở nhà trông cháu giúp vợ chồng con, tiện lắm.
Tôi chẳng nghĩ nhiều, chỉ thấy mừng vì con cần mình. Tôi thu dọn ít đồ đạc, khóa cửa nhà, gửi nhờ bà hàng xóm trông giúp mảnh vườn rồi xách túi lên thành phố. Căn chung cư nhỏ trên tầng 11 chật chội nhưng lúc nào cũng rộn ràng tiếng cười của cháu nội – Niệm, là đứa cháu trai duy nhất của tôi.
Tôi không phàn nàn gì, dù sáng sớm phải dậy chuẩn bị đồ ăn sáng, trưa đón cháu, tối nấu cơm. Vợ chồng Thành làm việc đến tối muộn mới về. Có hôm con dâu tôi về, chỉ hỏi mỗi câu “Hôm nay cháu ngoan không?” rồi đóng cửa phòng nằm lướt điện thoại. Tôi cũng không trách, vì nghĩ tụi nó đi làm cực rồi.
8 năm như thế, tôi sống như một người giúp việc không lương – mà chính tôi cũng chưa bao giờ nghĩ mình là người giúp việc. Tôi là mẹ, là bà nội của đứa cháu tôi yêu thương như máu thịt. Tôi chỉ mong tụi nó thương mình, hiểu công sức mình bỏ ra.
Thế rồi, một hôm, trời mưa lất phất, tôi đi đón Niệm về sớm vì nhà trường báo hôm đó các lớp tan sớm. Đi ngang hành lang về nhà, tôi nghe thấy tiếng nói chuyện vọng ra từ trong phòng ngủ của vợ chồng Thành. Cửa hé mở, tôi tính gọi khẽ thì bỗng nghe tiếng con dâu nói:
– Mẹ ở mãi thế này, em thấy bí bức lắm. Em muốn có không gian riêng.
– Thì từ từ đã. Dù sao mẹ cũng trông cháu, giờ đuổi mẹ về, ai lo cho Niệm? – Thành đáp.
– Chứ có phải không có người thuê đâu? Người giúp việc giờ thiếu gì. Chỉ cần mẹ về quê là em gọi người liền.
– Biết thế, nhưng mẹ mà biết em nói vậy thì giận đấy.
– Em nói thật chứ có ý gì đâu. Mẹ không có lương, không đóng góp, chỉ ở ăn ở, vậy thôi mà đòi hỏi nhiều thứ. Còn hay kể lể chuyện xưa chuyện nay, em mệt lắm rồi.
Tôi đứng như hóa đá. Tim đập dồn dập, mặt nóng bừng. Cả người tôi như bị ai vả một cái thật mạnh. Tôi quay lưng đi, rón rén vào phòng mình.
Đêm đó tôi không ngủ. Tôi nghĩ về từng ngày tôi đã ở đây – những ngày nấu từng bữa ăn, ngồi canh cháu học bài, từng lần bồng cháu đi bệnh viện lúc sốt cao, từng đêm lạnh nhường chăn cho Niệm. Tất cả giờ chỉ là “ăn ở không”, là “kể lể mệt mỏi”. Tôi nhận ra, hóa ra sự hiện diện của tôi trong căn nhà này là gánh nặng, là thứ mà con dâu chỉ chờ có cơ hội để dẹp bỏ.
Sáng hôm sau, tôi dậy sớm như mọi ngày. Nhưng lần này tôi không nấu ăn. Tôi xếp quần áo vào túi, gấp từng chiếc khăn từng bộ đồ của mình – không có nhiều vì suốt bao năm tôi chỉ dùng mấy bộ cũ. Tôi để lại một mảnh giấy:
“Mẹ về quê. Ở đây mẹ thấy mình không còn cần thiết nữa. Hai đứa nhớ giữ sức khỏe, dạy cháu nên người. Khi nào cháu cần bà, cứ gọi. Mẹ không giận, chỉ buồn.”
Rồi tôi lặng lẽ kéo vali, xuống thang máy và bắt xe về quê. Không ai biết, không ai tiễn.
Suốt hai ngày đầu, điện thoại Thành gọi liên tục. Tôi không nghe. Tôi cần yên tĩnh. Tôi cần thời gian để nguôi nỗi đau trong lòng. Ngày thứ ba, điện thoại im hẳn.
Tôi trở lại ngôi nhà cũ, mở cửa, bụi phủ đầy nhưng lạ thay, tôi thấy nhẹ lòng. Ít ra, ở đây tôi không bị ai coi thường, không bị coi là người dư thừa.
Sáng ngày thứ ba kể từ lúc tôi rời thành phố về quê, sân trước nhà tôi đã được tôi quét dọn sạch sẽ, mấy luống rau bắt đầu được cấy lại, con mèo hoang năm nào vẫn quanh quẩn đâu đây, như thể nhận ra tôi đã về.
Điện thoại vẫn im lìm. Lúc đầu tôi thấy buồn. Nhưng rồi lại thấy… nhẹ. Cái im lặng ấy như một dấu chấm than – nó xác nhận rằng, đúng là tôi không còn chỗ trong cái gia đình ấy nữa. Nếu cần tôi, lẽ ra con trai đã có mặt ở cổng từ ngày đầu.
Tôi rót ấm trà nóng, ngồi nhìn ra vườn. Nắng đã lên. Gió quê thơm mùi lúa, mùi đất. Tôi thầm thì:
– Ở đây cũng đâu có tệ.
Thế rồi trưa hôm đó, khi tôi vừa ăn xong bát cơm nguội với cà muối, cổng nhà tôi bỗng mở ra. Là Thành. Nó chạy vào, tay xách một cái túi. Mặt mũi hốc hác, mắt đỏ hoe. Tôi bất ngờ, đứng sững.
– Mẹ… mẹ ơi… mẹ đừng bỏ con.
Nó ôm tôi khóc như đứa trẻ. Đã bao lâu rồi tôi không thấy con trai mình như vậy. Tôi nhẹ tay vỗ lưng nó. Lòng mềm như bún, nhưng giọng tôi vẫn bình thản:
– Mẹ có bỏ đâu. Mẹ chỉ về nhà mình thôi.
– Con sai rồi mẹ ơi. Con ngu lắm. Hôm mẹ đi rồi, vợ chồng con mới giật mình. Niệm khóc cả buổi tối, không chịu ăn, không chịu ngủ. Nó đòi bà nội.
Tôi ngồi xuống, rót nước. Thành kể:
– Con biết mẹ nghe thấy rồi. Hôm đó… con không nghĩ mọi chuyện lại đi xa thế. Vợ con nó căng thẳng, nhưng đáng lẽ con phải biết bênh mẹ. Mẹ nuôi cháu, làm việc nhà, hi sinh 8 năm trời, vậy mà…
Tôi ngắt lời:
– Mẹ không trách gì ai cả. Nhưng mẹ cũng có cảm xúc, có tự trọng. Mẹ đâu phải người dưng mà ở nhờ ăn nhờ. Nhà cửa mẹ vẫn có, ruộng vườn mẹ vẫn giữ. Mẹ ở với tụi con không phải vì cần chỗ ở, mà vì nghĩ các con cần mẹ.
Thành gục đầu xuống. Nó bảo:
– Con xin lỗi. Vợ con cũng thấy hối hận. Hôm qua nó nhắn mẹ liên tục, mẹ không đọc. Nó sợ mẹ giận. Nó muốn xin lỗi trực tiếp, nhưng con bảo để con về trước.
Tôi mỉm cười buồn:
– Có những vết nứt không phải xin lỗi là lành ngay được, Thành ạ. Nhưng nếu tụi con thật lòng, thì còn cơ hội.
Thành ở lại quê với tôi một hôm. Hôm sau nó về. Trưa hôm đó, tôi nhận được cuộc gọi video từ Niệm. Mặt nó đỏ lên, nước mắt rơm rớm:
– Bà ơi, bà về với con được không ạ? Con ngoan, con nghe lời ba mẹ. Con hứa không để ai làm bà buồn nữa.
Tôi nghẹn lại, cười mà muốn khóc. Tôi bảo:
– Bà còn ruộng phải trông, nhà cửa phải lo. Nhưng hè này cháu về ở với bà nhé? Bà cho đi câu cá, ra đồng bắt ốc, làm diều thả…
Nó reo lên: “Dạ dạ! Con thích lắm!”
Sau hôm đó, con dâu tôi gọi, giọng nhỏ nhẹ và chân thành. Nó nói không khéo, nhưng tôi biết nó đang sửa sai. Nó bảo:
– Con không dám xin mẹ lên lại. Nhưng mẹ cho phép con về quê chăm mẹ mấy hôm được không ạ?
Tôi đồng ý.
Và mấy hôm sau, cả nhà nó kéo về. Con dâu tôi mang theo bao nhiêu đồ ăn, dọn nhà cửa như thể chuộc lỗi. Nhưng điều khiến tôi xúc động nhất là khi nó đứng giữa sân, nhìn tôi và nói:
– Con cảm ơn mẹ vì đã dạy con bài học này. Con chưa từng làm dâu nên con không hiểu cảm giác bị coi là “người ngoài”. Giờ thì con hiểu rồi. Nếu sau này con cũng bị con mình coi thường, chắc con cũng buồn như mẹ.
Tôi nắm tay nó, mỉm cười hiền:
– Làm người, miễn biết nhận sai, biết sửa sai, thì đều đáng quý cả.
Từ sau hôm đó, tôi không lên thành phố nữa. Nhưng mỗi cuối tuần, cả nhà Thành lại về. Cháu tôi về chơi với bà, chơi với ruộng, chơi với cây. Con dâu tôi biết nói lời cảm ơn và chủ động hỏi han. Con trai tôi thì thi thoảng lại ôm vai mẹ, dúi vào tay cái khăn tay mới, hay gói bánh tôi thích.
Tôi không cần nhiều. Chỉ cần được xem là người trong gia đình. Không phải người dưng.