Thương 2 bà cháu ă;n xi;n mưa ướt, tôi liền mời vào nhà trú tạm, ai ngờ cậu bé liền chỉ tay lên về phía bức ảnh trên tường rồi nói 1 câu khiến tôi bàng hoàng…

Thương hai bà cháu ăn xin mưa ướt, tôi liền mời vào nhà trú tạm, ai ngờ cậu bé liền chỉ tay lên về phía bức ảnh trên tường rồi nói một câu khiến tôi bàng hoàng…”

Chiều ấy, trời Sài Gòn bỗng đổ mưa như trút. Cơn mưa đầu mùa không lớn, nhưng dai dẳng và lạnh. Tôi – một người đàn ông ngoài ba mươi, sống một mình trong căn nhà nhỏ nằm trong con hẻm ở quận Tân Bình – đang nhâm nhi ly trà nóng thì nghe tiếng trẻ con ho khúc khắc bên ngoài cửa.

Tò mò nhìn qua khe cửa, tôi thấy một bà cụ dáng người còm cõi, lưng còng gập, tay cầm chiếc túi nilon che đầu, bên cạnh là một cậu bé tầm chín, mười tuổi, gầy gò, áo mỏng dính ướt đẫm. Hai bà cháu đứng nép dưới hiên nhà tôi, không dám gõ cửa, chỉ mong tránh cơn mưa đang ngày càng lạnh buốt.

Tôi mở cửa, mời họ vào.

“Vô nhà ngồi tạm đi bà ơi, mưa vầy đứng hoài coi chừng bệnh đó.”

Bà cụ lúng túng, đôi mắt lòa nheo lại nhìn tôi, run run: “Cảm ơn chú… tụi tôi không dám làm phiền đâu.”

“Không có gì, vô đi, lau người cho thằng bé kẻo cảm.”

Thế là hai bà cháu vào nhà. Tôi đưa cái khăn lông và một ly trà nóng. Cậu bé rụt rè nhận lấy, nhưng mắt vẫn đảo quanh căn nhà, lạ lẫm.

Căn nhà tôi đơn sơ, ngoài mấy món đồ nội thất cơ bản thì chỉ có vài bức ảnh treo tường. Một bức là hình tôi chụp cùng bố mẹ đã mất, một là bức ảnh cũ màu đen trắng – một người lính trẻ trong bộ quân phục, tay cầm nón sắt, nét mặt cương nghị. Bức ảnh ấy tôi treo ngay trên kệ tủ giữa phòng khách. Đó là bác tôi – liệt sĩ, người anh của cha tôi.

Cậu bé đột ngột đứng bật dậy, mắt tròn xoe, chỉ tay lên bức ảnh rồi hỏi:

“Ông kia là ai vậy chú?”

Tôi cười hiền: “Đó là bác của chú, mất từ hồi chiến tranh…”

Chưa kịp nói hết câu, cậu bé lẩm bẩm một câu khiến tôi sững người:

“Con từng thấy ông đó… trong giấc mơ.”

Tôi im lặng vài giây. Những lời ấy như một cơn gió lạnh thổi xuyên tâm trí. Làm sao một đứa bé ăn xin – chưa từng quen biết tôi – lại nhận ra được người trong bức ảnh chụp từ mấy chục năm trước?

Tôi cố giữ bình tĩnh, hỏi lại:

“Con thấy sao?”

“Ông ngồi dưới gốc cây, tay cầm quyển sổ. Ông kể chuyện chiến tranh… rồi bảo con phải tìm người có ngón tay cong…”

Tôi giật mình nhìn xuống bàn tay trái của mình – ngón trỏ hơi cong nhẹ từ nhỏ vì một tai nạn lúc chơi bóng bàn hồi cấp hai.

Bà cụ lúc đó đã tỉnh táo hơn, vội vã kéo tay đứa bé lại, miệng thì thào: “Đừng nói linh tinh nữa, Tí.”

Nhưng tôi lúc này như bị cuốn vào một điều gì đó rất lạ. Tôi gặng hỏi bà cụ xem bà cháu ở đâu, có ai thân thích không. Bà nói sống vất vưởng mấy năm nay, ngủ dưới gầm cầu hoặc lề đường. Cậu bé không phải cháu ruột, là con của một người hàng xóm trước kia ở quê, gửi lại rồi biệt tăm.

Tôi ngồi lặng đi. Một phần vì xúc động, phần khác là cảm giác có gì đó rất gắn bó, thân quen với cậu bé này – như thể đã từng gặp. Câu chuyện cậu kể không thể là ngẫu nhiên. Thằng bé chẳng hề sợ sệt khi nói ra, mà như tin chắc rằng nó có lý do để đến đây.

Tôi lấy cơm cho hai bà cháu ăn. Cậu bé ăn ngấu nghiến, nhưng không quên chia phần cho bà. Dáng vẻ của nó tuy gầy gò, nhưng có nét lanh lợi, thông minh.

Đêm đó, tôi sắp xếp cho hai bà cháu ngủ lại phòng khách. Trời vẫn mưa. Tôi không ngủ được, cứ trằn trọc nhớ lại ánh mắt của thằng bé khi nhìn bức ảnh, và lời nó nói về giấc mơ.

Sáng hôm sau, tôi đưa họ đi khám sức khỏe. Bác sĩ bảo thằng bé bị thiếu máu nhẹ, bà cụ thì huyết áp cao và viêm khớp nặng. Tôi thấy lòng mình nặng trĩu. Hai con người này chẳng còn nơi nào để đi, nếu tôi không giúp thì ai sẽ giúp?

Tối đó, khi tôi định đưa hai bà cháu ra thuê trọ tạm gần chợ Bàu Cát, cậu bé đột nhiên quay sang tôi và hỏi:

“Chú tên Tâm hả?”

Tôi gật đầu, ngạc nhiên vì chưa từng nói tên mình.

Nó gật gù: “Ông trong ảnh bảo con sẽ gặp chú Tâm. Chú sẽ là gia đình mới của con.”

Tôi ngẩn người, không hiểu đây là giấc mơ hay sự thật. Nhưng lòng tôi bỗng chùng xuống. Trong khoảnh khắc đó, tôi biết… chuyện này không chỉ là một cuộc gặp tình cờ.

Nó là một nhân duyên.

Tôi quyết định giữ hai bà cháu ở lại nhà thêm vài hôm để tiện chăm sóc. Cậu bé – tên Tí – càng lúc càng khiến tôi để tâm nhiều hơn. Nó lanh lợi, lễ phép, hay quan sát và đặc biệt rất thương bà. Mỗi lần bà cụ ho, nó đều chạy đi lấy nước, lấy dầu gió. Một đứa trẻ sống lang thang mà vẫn giữ được sự tinh tế và tử tế như vậy thật hiếm.

Tôi bắt đầu để ý những cơn mơ lặp lại của Tí.

Đêm nào ngủ, nó cũng ú ớ, thì thầm tên “ông lính” trong ảnh. Có đêm còn ngồi bật dậy, toát mồ hôi, nói mớ:

“Con chưa tới được… đường mòn… có chiếc xe jeep xanh… ông đợi…”

Tôi hỏi thì nó lắc đầu, nói không nhớ gì, chỉ thấy mình đang đi trong rừng, rồi gặp một người mặc áo bộ đội, mặt giống hệt người trong bức ảnh.

Linh tính mách bảo tôi rằng có điều gì đó chưa được giải mã. Tôi bắt đầu tìm lại tư liệu cũ của gia đình. Hộp kỷ vật của bác tôi vẫn còn, bên trong là một lá thư ông viết gửi cha tôi trước khi nhập ngũ – nét chữ nắn nót, kể về một đợt hành quân cuối cùng ở Tây Nguyên. Ông nhắc đến một người tên là Thu, một người phụ nữ ông thương yêu nhưng chưa từng nói rõ mối quan hệ.

Điều kỳ lạ là khi tôi đọc tên “Thu” lên, bà cụ ăn xin đang nấu nước dưới bếp bỗng khựng lại, quay đầu, mắt mở lớn:

“Cậu vừa nói ai cơ?”

Tôi cầm lá thư ra, hỏi bà cụ có quen cái tên này không.

Bà run run, lấy kính ra đeo, đọc một hồi rồi bỗng bật khóc.

“Là chị tôi… Thu là chị ruột tôi… Mất tích từ hồi năm 75…”

Không khí như đông cứng lại. Tôi cảm thấy một sợi dây vô hình đang từ từ hiện ra – gắn kết chúng tôi lại bằng quá khứ bị lãng quên.

Bà kể, chị Thu là người duy nhất trong gia đình bà có tri thức, được đi học, sau đó vào Sài Gòn công tác thời chiến. Năm 1974, chị viết thư về nói đang yêu một người lính miền Bắc, nói rằng sẽ lập gia đình sau chiến tranh. Nhưng đến 1975, chị bặt vô âm tín. Gia đình tưởng chị đã chết.

Bức ảnh bác tôi trong bộ quân phục kia… chính là người đàn ông ấy?

Tôi hỏi bà:

“Vậy còn mẹ của Tí…?”

Bà im lặng. Mãi một lúc sau, bà mới kể. Có một đứa con gái – chị tên Hiền – từng bị ép lấy chồng ở quê, sinh được một đứa con. Nhưng sau đó, bỏ đi vì bị chồng bạo hành. Mười năm không ai gặp lại. Tới một ngày, có người trong xóm thấy chị Hiền trở về, ôm theo một đứa bé – là Tí – và nhờ hàng xóm trông giùm để đi mua thuốc. Rồi mất hút từ đó.

Bà nhận nuôi đứa bé vì thương. Không giấy tờ, không thân thích, bà đành dắt cháu đi lang thang kiếm sống.

Tôi lập tức mang hộp kỷ vật, ảnh cũ và cả bức thư đến nhờ bạn cũ – một cán bộ bên Quân khu 7 – tra lại hồ sơ liệt sĩ. Một tuần sau, có kết quả.

Bác tôi – Nguyễn Văn Cường, hy sinh trong một trận đánh gần Buôn Ma Thuột năm 1975. Trước khi hy sinh, ông từng được cấp trên cho nghỉ ba ngày ở Pleiku, nơi ông đăng ký tạm trú dưới tên giả là “Lê Văn Hùng”.

Và đúng địa chỉ đó, từng có một người phụ nữ tên Nguyễn Thị Thu làm việc – tức là chị của bà cụ ăn xin. Có một bức ảnh duy nhất chụp chung hai người tại địa phương. Tôi mang về cho bà cụ xem. Bà òa khóc.

“Chắc chắn là chị tôi… còn ông lính… là anh rể tôi rồi.”

Tôi như vỡ òa. Tí chính là cháu gọi bác tôi bằng ông ngoại.

Cậu bé, qua bao năm tháng lang bạt, vô tình – hoặc có thể do một sự dẫn dắt kỳ lạ nào đó – mà tìm về đúng ngôi nhà của dòng tộc mình. Không ai dạy, không ai chỉ, chỉ có những giấc mơ kỳ lạ và ánh mắt đau đáu của một đứa trẻ khao khát được thuộc về.

Tôi quyết định làm giấy giám hộ cho Tí. Không dễ, vì cậu bé không có giấy khai sinh, nhưng nhờ sự hỗ trợ của bạn tôi và hồ sơ đối chiếu từ phía quân đội, cuối cùng chúng tôi cũng làm được thủ tục.

Tí chính thức được mang họ Nguyễn, là cháu nội của gia đình tôi.

Căn nhà nhỏ giờ rộn tiếng cười. Tôi xin nghỉ việc ở công ty thiết kế để chuyển sang dạy bán thời gian, dành nhiều thời gian cho Tí. Tôi mua cho nó bộ sách lớp 3, thuê gia sư kèm lại từ đầu. Nó học nhanh, đặc biệt giỏi môn Lịch sử. Có lẽ vì trong tim nó đã mang sẵn một câu chuyện lịch sử sống động.

Bà cụ – giờ là “dì Tư” trong nhà – sức khỏe yếu dần, nhưng tinh thần thì an yên. Có ngày, bà cầm bức ảnh người chị đã khuất, vuốt ve như nói chuyện với người xưa:

“Chị yên tâm rồi nghe. Thằng cháu chị đã về đúng nhà.”

Tối nọ, tôi hỏi Tí:

“Làm sao con nhớ ông trong mơ rõ vậy?”

Nó cười hồn nhiên:

“Con không biết… chỉ nhớ rõ mắt ông buồn buồn, mà hiền lắm. Ổng hay ngồi dưới gốc cây, bảo con phải ráng tìm chú có ngón tay cong, ổng nói: ‘Chú đó sẽ thương con như má con từng thương…’”

Tôi lặng người.

Không biết có thứ gọi là “linh hồn” hay “duyên âm” thật không. Nhưng tôi tin rằng, đôi khi, tình yêu của những người đã khuất vẫn dõi theo ta – âm thầm, lặng lẽ – và gửi gắm những điều chưa thể nói hết… vào một giấc mơ.